Nhớ họa sĩ Nguyễn Anh Thường

Những ngày cuối tháng 6 vừa qua, hai họa sĩ cao niên, đều cùng sinh năm 1930, thuộc khóa Tô Ngọc Vân (1955-1957), đã ra đi. Một người là NGND Nguyễn Thụ (thầy giáo hội họa từ 1963, nguyên Hiệu trưởng Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam từ 1985 đến 1992. Một người là chiến sĩ từ thuở thiếu niên, rồi có 31 năm (1959-1990) là họa sĩ Xưởng phim Đèn chiếu (thuộc Cục Điện ảnh) là họa sĩ Nguyễn Anh Thường. Với họa sĩ Nguyễn Anh Thường, còn ít người biết về những thành công trong quá khứ khi dùng mỹ thuật như “vũ khí của chiến tranh cách mạng và lao động sản xuất”…
Họa sĩ lão thành Nguyễn Anh Thường. Ảnh: THU HUYỀN
Họa sĩ lão thành Nguyễn Anh Thường. Ảnh: THU HUYỀN

Tham gia vẽ bức tranh tường… lớn ở đặc khu Hồng Quảng

Năm 1958, đặc khu Hồng Quảng (gồm các khu vực Hồng Gai, Cẩm Phả, Vạn Ninh, một phần của tỉnh Quảng Ninh, sau này được thành lập năm 1963) mở đợt chỉnh đốn công nghiệp vùng khai thác than - vàng đen của Tổ quốc. Nhóm họa sĩ học xong khóa Tô Ngọc Vân (1955-1957) được mời tham gia xây dựng phong trào mỹ thuật ở đây gồm các ông Hoàng Công Luận, Nguyễn Anh Thường, Nguyễn Yên, Lưu Yên, Bùi Quang Ngọc, Vũ Duy Nghĩa, Vũ Đình Thịnh, Hoàng Thái… cùng nảy sáng kiến vẽ tranh tường lớn cổ động truyền thống tiên phong của công nhân vùng than để xây dựng miền bắc và góp phần giải phóng miền nam.

Bức tranh tường được cả nhóm cùng phác thảo với hai phần. Phần vế trái vẽ lại cuộc đoàn kết đấu tranh của hàng vạn thợ mỏ vào ngày 12/11/1936, khiến chủ Tây phải nhượng bộ, tăng lương, giảm giờ làm. Vế phải là cảnh vùng mỏ đã được giải phóng, công nhân hăng hái lao động, cuộc sống ấm no. Bức tranh tên gọi là “Vùng mỏ xưa và nay”, nhưng người dân mỏ sau đó gọi vắn tắt là bức tranh “Hai chế độ”. Tranh hoàn thành năm 1959, gây tiếng vang, tạo khí thế thi đua khắp nơi. Bộ Văn hóa khi đó cử Thứ trưởng - nhà thơ Cù Huy Cận làm trưởng đoàn văn nghệ sĩ về chiêm ngưỡng và đánh giá cao về giá trị của bức tranh hoành tráng đầu tiên trên toàn miền bắc, cao 2m, dài 40m.

Rất tiếc là bức tranh tường lớn này tồn tại đến năm 1966 thì bị bom Mỹ tàn phá. Bản nhỏ của nó được các tác giả vẽ lại bằng bột mầu trên lụa, tham gia Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1960 và đạt Huy chương đồng, rồi được Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam lưu giữ.

Họa sĩ Nguyễn Anh Thường sau đó được phân công phụ trách chính lớp vẽ đầu tiên của công nhân mỏ tại Cẩm Phả. Trước đó, ông từng là họa sĩ vẽ cổ động của Đoàn văn nghệ quân đội Liên khu III. Ông quê gốc ở Kim Thi, Hưng Yên, tham gia du kích năm 15 tuổi và vào quân đội khi mới 16 tuổi (1946). Từ 1950 đến 1954, ông tham gia chiến đấu trong đoàn quân tình nguyện ở mặt trận Thượng Lào. Năm 1955, Trường Mỹ thuật Việt Nam từ chiến khu trở về Thủ đô giải phóng, mở khóa đầu tiên lấy tên danh họa Tô Ngọc Vân (người đích thân mở khoa Mỹ thuật kháng chiến, hy sinh năm 1954) để nâng cao trình độ cho các họa sĩ chuyên và không chuyên, đủ độ tuổi và xuất thân từ nhiều ngành nghề khác nhau trên cả nước. Khóa gồm 76 người, từ 1955 đến 1957, là cả một thế hệ nghệ sĩ phục vụ xã hội, xây dựng đất nước. Ngoài một số là liệt sĩ trong chiến tranh, thì hầu hết họ đều nổi danh sau này, đảm nhiệm vị trí “thủ trưởng”, trong nhiều đơn vị công tác liên quan đến văn hóa và mỹ thuật. Họa sĩ Nguyễn Anh Thường còn học tiếp đến tận năm 1962 để tốt nghiệp Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, sau đó ông chuyển từ vai họa sĩ quân đội (hàm thiếu úy) sang làm tại Xưởng phim Đèn chiếu cho đến khi về hưu (1990). Ông là hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam từ năm 1980, và đã được trao Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng nhất, Huy chương Chiến sĩ văn hóa, Huy chương Vì sự nghiệp mỹ thuật Việt Nam.

Bức tranh “Quê ngoại” bằng bột mầu, vẽ năm 1978 của Nguyễn Anh Thường, được Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam lưu giữ.

Bức tranh “Quê ngoại” bằng bột mầu, vẽ năm 1978 của Nguyễn Anh Thường, được Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam lưu giữ.

Biệt tài mực nho và duyên tình với... những cánh buồm

Họa sĩ Nguyễn Anh Thường có biệt tài vẽ mực nho trên giấy trắng để... ghi lòng mình trên những cánh buồm Hạ Long. Phong cảnh Quảng Ninh trên khu vực vịnh Hạ Long từ giữa thế kỷ trước rất khác ngày nay, chủ yếu là những con thuyền đánh cá lớn chạy bằng buồm xen giữa các đảo lô nhô đẹp tuyệt vời. Có lẽ thấy ghi lại bằng bột mầu, sơn dầu (không dễ có) không ăn thua, Nguyễn Anh Thường chuyển sang mực nho và tài năng này được thế hệ đồng thời công nhận, truyền tai nhau.

Ông tham gia đều đặn các triển lãm toàn quốc với nhiều tác phẩm ca ngợi phẩm cách con người trong chiến tranh, cách mạng, rất có giá trị trong các bộ sưu tập sau này. Tuy nhiên, duyên tình với mực nho và phong cảnh Hạ Long khiến ông chuyển dịch sang chất liệu sơn mài, sơn khắc từ... sau năm 2000, là điều rất đáng nể phục, mà hiếm có ai duy trì sức lao động nghệ thuật cho đến khi qua đời ở ngoài tuổi “cửu thập” như ông. Đầu tháng 3 năm nay, nhà sưu tập Phan Minh Hà đã tổ chức buổi triển lãm tổng kết đáng nhớ để tôn vinh ông và nữ họa sĩ thế hệ sau là bà Vũ Hồng Ngọc (sinh năm 1945). Trong đó, các tác phẩm của ông là một loạt tranh sơn mài, sơn khắc khổ lớn về phong cảnh Hà thành và phong cảnh biển, đảo Hạ Long, cùng một số bức đồ họa trừu tượng. Điều khiến khán giả trầm trồ nhất, là loạt tác phẩm khổ lớn này đều được họa sĩ sáng tác trong thập niên độ tuổi 70, rồi 80. Quan sát những bố cục “hiện thực - lãng mạn” của một thế hệ thời kỳ đầu của mỹ thuật cách mạng trong thời kỳ mới còn non trẻ, người xem đương đại không thể không khâm phục trước sức sống vui khỏe, tinh thần xã hội trân trọng con người của những thế hệ đầu tiên khi nước nhà được giải phóng và thống nhất, mãi mãi không tan.