Nhà nghiên cứu mỹ thuật Bùi Hoàng Anh

“Người Việt Nam mới mua tranh Việt Nam ở mức giá cao nhất”

Tranh Việt Nam không trở nên nổi tiếng trên sàn đấu giá quốc tế nhờ các nhà sưu tập nước ngoài, mà chính bởi người Việt Nam. Chỉ có người Việt mới thật sự thấu hiểu giá trị của tranh Việt và sẵn sàng chi số tiền lớn để sở hữu chúng. Đó là nhận định táo bạo của nhà nghiên cứu Bùi Hoàng Anh (ảnh bên), nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Mỹ thuật, Giám đốc Nghệ thuật Công ty Viet Art View. Chị chia sẻ với Thời Nay về vấn đề này và đòi hỏi phát triển thị trường tranh Việt.
Phiên đấu giá tháng 10/2024 của Millon với hai tác phẩm lụa tiêu điểm của họa sĩ Lê Phổ là “Món quà từ mẹ” và “Quý bà và con vẹt”.
Phiên đấu giá tháng 10/2024 của Millon với hai tác phẩm lụa tiêu điểm của họa sĩ Lê Phổ là “Món quà từ mẹ” và “Quý bà và con vẹt”.

Phóng viên (PV): Chị đánh giá như thế nào về tranh của các danh họa Việt trên các sàn quốc tế, đặc biệt là tranh thời kỳ Đông Dương?

Nhà nghiên cứu Bùi Hoàng Anh: Về cơ bản, nhà đấu giá là một công ty hoạt động thương mại trong lĩnh vực nghệ thuật. Vì vậy, mối quan tâm của các nhà đấu giá quốc tế đối với tranh Việt Nam chủ yếu xoay quanh giá trị thương mại và nghệ thuật. Tranh thời kỳ Đông Dương vẫn luôn có sức hút mãnh liệt. Ở nước ngoài có bộ tứ Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Lê Thị Lựu, Vũ Cao Đàm. Trong nước có Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tường Lân, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Gia Trí, Phạm Hậu, Lương Xuân Nhị, Nguyễn Khang, Nguyễn Văn Tỵ, Nguyễn Tiến Chung, Hoàng Tích Chù… đều được người yêu nghệ thuật quan tâm và kiếm tìm.

Đặc biệt bộ tứ Phổ - Thứ - Lựu - Đàm được ưu ái, đạt nhiều triệu đô về giá đấu. Họ đều rời Việt Nam từ rất sớm và sáng tác ở nước ngoài, nhưng tranh của họ lại được săn đón, kiếm tìm, đạt mức giá cao hơn nhiều họa sĩ trong nước bởi mấy lý do. Lý do thứ nhất họ vẽ về Việt Nam với một góc nhìn hoài niệm, sâu sắc, mang tính lãng mạn với những vẻ đẹp mơ màng trong ký ức. Nhất là khi sống xa quê hương, nỗi nhớ và tình cảm ngày càng tha thiết, và họ lấy nghệ thuật để bày tỏ. Lý do thứ hai, tác phẩm của họ được giới thiệu trên thị trường toàn cầu thông qua các nhà đấu giá quốc tế. Chưa kể đến Lê Phổ còn là họa sĩ độc quyền của Wally Finday Galleries nổi tiếng ở Mỹ từ thập niên 1960.

Những bức tranh phong cảnh quê hương, tà áo dài, sinh hoạt đời thường... đã trở thành hình ảnh đặc trưng của tranh Việt Nam trên thị trường quốc tế. Và nhất là khi những bức tranh đó lại được giao thương trên thị trường quốc tế, được bán đấu giá trên sàn quốc tế đã đáp ứng được sự mong mỏi của nhiều người chơi tranh hay nhiều nhà sưu tập cũng như thị hiếu đương thời.

PV: Vậy việc tranh của các danh họa Đông Dương được đấu giá trên thị trường quốc tế có ý nghĩa gì với nền mỹ thuật Việt Nam?

Nhà nghiên cứu Bùi Hoàng Anh: Sự xuất hiện của tranh Việt Nam trên các sàn đấu giá danh tiếng như Christie’s, Sotheby’s, Aguttes, Millon, Bonhams và nhiều nhà đấu giá khác... không chỉ giúp nâng cao giá trị của tranh Việt, đưa bản sắc văn hóa nghệ thuật truyền thống Việt hiện diện sâu sắc trên diện rộng mà còn khẳng định vị thế mỹ thuật Việt Nam trên bản đồ nghệ thuật thế giới.

Trước đây, giao dịch tranh ở Việt Nam chủ yếu diễn ra trong nước, với những thỏa thuận riêng tư. Tuy nhiên, kể từ năm 2010, khi tranh Việt Nam xuất hiện nhiều hơn trên các sàn quốc tế, giá trị của chúng mới thật sự được công nhận.

Hiện nay, các kỷ lục đấu giá liên tục bị phá vỡ. Năm 2021, bức “Chân dung cô Phượng” của Mai Trung Thứ đạt giá 3,1 triệu USD. Năm 2022, “Dáng hình trong vườn” (Lê Phổ) đạt 2,2 triệu USD. Năm 2023, một năm kinh tế rất khó khăn nhưng một bức tranh khác của Lê Phổ là bức “Gia đình trong vườn” đã soán ngôi quán quân với mức giá hơn 2,2 triệu USD. Như vậy cho thấy dù kinh tế có khó khăn, suy thoái thì nghệ thuật vẫn luôn ở một mức mới và tầm cao mới.

Đặc biệt, mới đây, tại buổi đấu giá “A Quest for Eternity: The Philippe Damas Collection,” do nhà đấu giá Christie’s Hồng Công (Trung Quốc) tổ chức, bức “Le Trois Femmes” (1934), tạm dịch là “Ba người phụ nữ” của Nguyễn Gia Trí được gõ búa thành công với mức 16.105.000 HKD (đô la Hồng Công), vượt xa dự kiến 4-6 triệu HKD tương đương 2,1 triệu USD. Mức giá này đặt Nguyễn Gia Trí vào hạng 4 trên 10 tranh Việt đắt giá nhất.

Bức “Món quà từ mẹ” của họa sĩ Lê Phổ, sáng tác khoảng 1935-1945, mực và mầu trên lụa 63,5x50,5 cm.

Bức “Món quà từ mẹ” của họa sĩ Lê Phổ, sáng tác khoảng 1935-1945, mực và mầu trên lụa 63,5x50,5 cm.

PV: Vậy theo quan sát của chị, điều gì tạo nên giá trị của một bức tranh trên thị trường quốc tế?

Nhà nghiên cứu Bùi Hoàng Anh: Giá trị của một bức tranh phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Trước tiên, đó là giá trị nghệ thuật tự thân, tức là tài năng và phong cách riêng biệt của người nghệ sĩ. Tiếp sau đó là thời điểm ra đời của tác phẩm nằm trong giai đoạn then chốt quan trọng (nào đó) trong lịch sử dòng chảy mỹ thuật của quốc gia đó. Sau đó, một yếu tố quan trọng khác là lai lịch của bức tranh: Nó từng thuộc sở hữu của những gia đình danh tiếng hay nằm trong những bộ sưu tập lâu đời hay không. Cuối cùng, yếu tố làm gia tăng giá trị của tác phẩm là việc nó được trưng bày, giới thiệu và đấu giá bởi các nhà đấu giá danh tiếng, có uy tín... Những tổ chức này không chỉ bảo đảm tính minh bạch về nguồn gốc mà còn giúp mỹ thuật được phổ biến rộng rãi trên truyền thông quốc tế.

PV: Theo quan sát của chị, vai trò của nhà sưu tập Việt Nam trong việc nâng cao giá trị tranh Việt trên thị trường quốc tế là gì?

Nhà nghiên cứu Bùi Hoàng Anh: Hiện nay, các tác phẩm có giá trị đấu giá cao nhất của Việt Nam đều thuộc về nhà sưu tập người Việt. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của người Việt trong việc giữ gìn và nâng tầm giá trị mỹ thuật, bản sắc văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế.

PV: Ngoài tranh của các danh họa Đông Dương, theo nghiên cứu của chị, tranh của các họa sĩ đương đại Việt Nam có chỗ đứng trên thị trường quốc tế không?

Nhà nghiên cứu Bùi Hoàng Anh: Tranh Việt Nam ra sàn đấu giá quốc tế cũng có của các họa sĩ đương đại nhưng chưa nhiều. Hiện nay, họa sĩ đương đại vẫn đang sáng tác để góp tạo nên dòng chảy mỹ thuật Việt Nam. Và thời kỳ nào cũng vậy, luôn có những nghệ sĩ tiêu biểu, tài năng… Tôi tin tưởng các thế hệ nghệ sĩ nối tiếp luôn có vị trí nhất định trên trường quốc tế.

PV: Vậy thị trường nghệ thuật trong nước có vai trò gì đối với sự phát triển của Mỹ thuật Việt Nam?

Nhà nghiên cứu Bùi Hoàng Anh: Chúng ta thường nhìn ra quốc tế mà quên rằng thị trường trong nước là thị trường quan trọng nhất. Bởi chỉ có người Việt Nam mới mua nghệ thuật Việt Nam ở mức giá cao nhất.

Hiện nay, các doanh nhân thành đạt ngày càng nhiều, nhu cầu về thưởng thức văn hóa nghệ thuật ngày càng được nâng tầm. Những tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu đắt giá của mỹ thuật Việt Nam đều được họ mua và mang về quê hương. Điều này vô hình trung góp phần bồi đắp dần thành tựu văn hóa dân tộc. Tạo thành một hệ tư tưởng thẩm mỹ; sưu tập trước là cho cá nhân, sau chính là cho quê hương.

Ngoài ra, mức giá cao của tác phẩm nghệ thuật cùng với việc tăng dần giá trị theo thời gian khiến cho nghệ thuật dần trở thành kênh đầu tư hấp dẫn. Họ vừa có được niềm vui sở hữu, niềm vui thẩm mỹ, và giá trị kinh tế ngày càng tăng. Việc này, vô hình trung tạo sức lan tỏa trong xã hội với nhu cầu về thụ hưởng nghệ thuật. Mỗi thời kỳ, mỗi phong cách nghệ thuật đều có lượng khán giả yêu mến, quan tâm nhất định.

Để phát triển thị trường tranh trong nước, cần có cơ chế minh bạch hơn về đấu giá, thẩm định, định giá tranh, cũng như sự tham gia của các tổ chức nghệ thuật, bảo tàng và nhà sưu tập. Khi có thị trường ổn định, nghệ sĩ sẽ có động lực sáng tạo, và nền mỹ thuật Việt Nam sẽ không chỉ dừng lại ở những tên tuổi đã định danh mà còn có thêm nhiều tài năng mới được công nhận.

PV: Cảm ơn chị về cuộc trò chuyện thú vị này!