Thơ viết về liệt sĩ là phần thi ca xúc động nhất, đặc sắc nhất ở Việt Nam hiện nay. Tôi nghĩ thế. Đấy không chỉ là thơ mà là máu xương của dân tộc này; những mất mát đau thương, những bi tráng dễ gì nói hết, nói đủ. Sự hy sinh quá lớn!
Đã đọc nhiều lần những bài thơ viết về liệt sĩ mà vẫn cứ như mới đọc lần đầu, nỗi đau thương, niềm tự hào còn vẹn nguyên như thế. Đấy là Hoàng Lộc với Viếng bạn, Quang Dũng với Tây Tiến, Chính Hữu với Giá từng thước đất, Vũ Cao với Núi Đôi, Giang Nam với Quê hương, Tố Hữu với Hãy nhớ lấy lời tôi, Thanh Hải với Mồ anh hoa nở, Dương Hương Ly với Bài thơ về hạnh phúc, Lâm Thị Mỹ Dạ với Khoảng trời hố bom, Nguyễn Đức Mậu với Nấm mộ và cây trầm, Lê Anh Xuân với Dáng đứng Việt Nam... (trước năm 1975), Hữu Thỉnh với Phan Thiết có anh tôi, Dương Kỳ Anh với Bài thơ người đi tìm mộ em trai mình, Trần Ninh Hồ với Viếng chồng, Nguyễn Quang Tính với Cỏ trên mộ chí, Nguyễn Đình Chiến với Gặp lại các em, Lê Đình Cánh với Gió đất, Trần Mạnh Hảo với Vĩnh biệt, Vương Trọng với Lời thỉnh cầu ở Nghĩa trang Đồng Lộc, Nguyễn Văn Hiếu với Cô tôi, Anh Ngọc với Yên nghỉ, Bùi Nguyên Ngọc với Hai phía võng ru, Nguyễn Hữu Quý với Khát vọng Trường Sơn, Đinh Phạm Thái với Cái roi ngày ấy, Vũ Bình Lục với Đám cưới một linh hồn... (sau năm 1975).
Thơ viết về đau thương mất mát nhưng không làm cho người ta gục xuống, kể cả người thân liệt sĩ. Dù rất xót đau nhưng ai cũng nghĩ rằng, sự hy sinh mất mát của dân tộc trong cuộc chiến đấu giành giữ độc lập tự do, thống nhất hòa bình và chủ quyền lãnh thổ luôn mang những giá trị cao cả tốt đẹp không gì sánh được.
Ngay từ những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp, điều đó đã được thể hiện trong bài thơ Viếng bạncủa Hoàng Lộc. Xót thương đồng đội Khóc anh không nước mắt,/ Mà lòng đau như thắt,/ Gọi anh chửa thành lời/ Mà hàm răng dính chặt nhưng nỗi đau ấy đã biến thành hành động yêu nước Mai mốt bên cửa rừng/ Anh có nghe súng nổ/ Là chúng tôi đang cố/ Tiêu diệt kẻ thù chung.
Không phải chỉ một Anh hùng Phan Đình Giót mà rất nhiều người lính Cụ Hồ nghĩ rằng, mình ra trận có hy sinh cũng vì ước nguyện cao nhất là mang lại bình yên cho đất nước: Không nghĩ để mai sau/ Các cháu con đúc tượng/ Mà chỉ muốn trên đầu/ Nở vạn mùa hoa phượng (Bịt lỗ châu mai - Phác Văn).
Trong muôn vàn gian khổ, người lính vẫn can trường vượt qua, vẫn dào dạt yêu đời và sẵn sàng dâng hiến hy sinh vì Tổ quốc: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc/ Quân xanh màu lá dữ oai hùm/ Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm/ Rải rác biên cương mồ viễn xứ/ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/ Áo bào thay chiếu, anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành... (Tây Tiến - Quang Dũng) Thơ Chính Hữu vừa cụ thể vừa khái quát, nói về giá trị hy sinh của đồng đội trên chiến trường khốc liệt, những Lò Văn Sự, Nguyễn Đình Ba... thi sĩ viết: Khi bạn ta/ lấy thân mình/ đo bước/ Chiến hào đi/ Ta mới hiểu/ giá từng thước đất (Giá từng thước đất)...
Dù ra đời sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bài thơ Núi Đôicủa Vũ Cao vẫn là một khắc tạc bi tráng trữ tình về thế hệ trẻ Việt Nam. Câu chuyện tình yêu trong Núi Đôiđã lay động hàng triệu trái tim của nhiều lớp người Việt Nam. Tình yêu đôi lứa càng đẹp đẽ trong sáng bao nhiêu thì sự hy sinh của cô gái du kích càng cao cả lung linh bấy nhiêu. Dẫu nỗi đau vô cùng lớn Anh ngước nhìn lên hai dốc núi/ Hàng thông, bờ cỏ, con đường quen/ Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói/ Núi vẫn đôi mà anh mất em nhưng niềm tự hào vẫn vang vọng mãi:Anh đi bộ đội sao trên mũ/ Mãi mãi là sao sáng dẫn đường/ Em sẽ là hoa trên đỉnh núi/ Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ dài lâu hơn và vô cùng ác liệt. Năm 1954, hòa bình được lập lại ở miền bắc nhưng nửa nước phía nam vẫn còn sống trong cảnh kìm kẹp, máu chảy đầu rơi. Chiến tranh vẫn chưa một phút ngưng ở phía nam Vĩ tuyến 17 và đến năm 1964 lan ra cả nước. Nói như Tố Hữu thì máu đọng chưa khô máu lại đầy, cả nước bước vào cuộc trường chinh mới với nhiều thử thách nghiệt ngã tưởng chừng khó vượt qua và muôn vàn hy sinh không kể xiết.
Quê hươngcủa Giang Nam lay động hàng triệu trái tim từ khi đất nước mới chia đôi: Hôm nay nhận được tin em/ Không tin được dù đó là sự thật/ Giặc giết em rồi, quăng mất xác/ Chỉ vì em là du kích em ơi!/ Đau xé lòng anh, chết nửa con người.
Thơ về liệt sĩ thời này có một đặc điểm chung dễ thấy là chất anh hùng luôn được tô đậm, đề cao. Khí phách lẫm liệt của các liệt sĩ xuất hiện ở không ít bài thơ như Hãy nhớ lấy lời tôicủa Tố Hữu: Anh bước lên, nhức nhối chân đau,/ Dáng hiên ngang vẫn ngẩng cao đầu/ Quần áo trắng một màu tinh khiết/ Thân gầy yếu mạnh hơn cái chết..., như Bài thơ về hạnh phúccủa Dương Hương Ly: Em ra đi chẳng để lại gì/ Ngoài ánh mắt cười lấp lánh sau mi/ Và anh biết khi bất thần trúng đạn/ Em đã ra đi với mắt cười thanh thản/ Bởi được góp mình làm ánh sáng ban mai/ Bởi biết mình có mặt ở tương lai..., như Nấm mộ và cây trầmcủa Nguyễn Đức Mậu: "Chết - Hy sinh cho Tổ quốc" Hùng ơi/ Máu thấm cỏ, lời ca bay vào đất/ Hy sinh lớn cũng là hạnh phúc/ Một cây xuân thành biển khắc tên Hùng..., như Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân: Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt/ Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng/ Và anh chết trong khi đang đứng bắn/ Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng... Trong những bài thơ viết về liệt sĩ xuất hiện ở thời kỳ chống Mỹ, cứu nước tôi ấn tượng nhất với bài thơ Khoảng trời hố bomcủa Lâm Thị Mỹ Dạ. Chất nhân văn cũng như nỗi niềm chân thực rung rinh trong từng thi ảnh, từng câu chữ, nhịp điệu thơ. Nó bớt đi hay không còn nữa sự gồng cứng trong một số bài thơ ta hay gặp thời đó. Lâm Thị Mỹ Dạ viết: Em nằm dưới đất sâu/ Như khoảng trời đã nằm yên trong đất/ Đêm đêm, tâm hồn em tỏa sáng/ Những vì sao ngời chói, lung linh/ Có phải thịt da em mềm mại, trắng trong/ Đã hóa thành những làn mây trắng? Và ban ngày khoảng trời ngập nắng/ Đi qua khoảng trời em/ Vầng dương thao thức... Lại có những câu thơ bình dị mà găm sâu vào tâm hồn bạn đọc nhiều lứa tuổi. Hữu Thỉnh trong Phan Thiết có anh tôinhiều thổn thức, ngậm ngùi: Không nằm trong nghĩa trang/ Anh ở với đồi anh xanh cỏ/ Cỏ ở đây thành nhang khói của nhà mình/ Đồi ở đây cũng là con của mẹ/ Lo liệu trong nhà dồn xuống vai em...
Một ngọn gió nơi chiến trường xưa, nơi yên nghỉ của các liệt sĩ bây giờ cũng mang những nỗi niềm âm - dương ấm lạnh: Khói hương như thể mây mù/ Trắng trời lớp lớp lau gù đội tang/ Xạc xào gió lá ngụy trang/ Gió từ cõi đất gió sang cõi người!(Gió đất - Lê Đình Cánh). Chúng ta vẫn hằng tin rằng, người hy sinh vẫn mang trong mình những khát vọng đẹp đẽ của cuộc sống. Không gì cao sang cả, chỉ là mong muốn quê hương đất nước được bình yên, nhân dân có cơm ăn áo mặc và những người phụ nữ Việt Nam được sống hạnh phúc dưới mái nhà của mình. Rất nhiều cô gái không còn được hưởng hạnh phúc ấy, dù chỉ là một chậu nước bồ kết gội đầu. Chính vì thế mà mười cô gái ở nghĩa trang Đồng Lộc đã thỉnh cầu: Cần gì ư, lời ai hỏi trong chiều/ Tất cả chưa có chồng và chưa ngỏ lời yêu/ Ngày bom vùi tóc tai bết đất/ Nằm xuống mộ rồi mái đầu chưa gội được/ Thỉnh cầu đất cằn cỗi nghĩa trang/ Cho mọc dậy vài cây bồ kết/ Hương chia đều trong hư ảo khói nhang(Lời thỉnh cầu ở nghĩa trang Đồng Lộc - Vương Trọng).
Đi tìm đồng đội, đi tìm người thân là nội dung quen thuộc ở khá nhiều bài thơ viết về liệt sĩ. Ở nhiều tác phẩm, sự rung động từ người viết mau chóng truyền tải qua người đọc trong sự đồng cảm và chia sẻ vô cùng lắng đọng: Xin cho đau nỗi đau rừng/ Cánh cò trắng cả một vùng trời xa/ Đón em về lại quê nhà/ Với thầy mẹ, với ông bà tổ tiên... (Đưa em về - Nguyễn Văn Hiếu). Sự nghiệp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ Tổ quốc hôm nay cũng cần tới sự hy sinh không hề nhỏ của chiến sĩ và nhân dân. Dòng tên liệt sĩ lại phải nối dài thêm từ biên giới, biển đảo trong cuộc chiến đấu chống bọn bành trướng xâm lược, gây hấn. Trong bài thơ Gặp lại các em, Nguyễn Đình Chiến quặn lòng khi đứng trước những nấm mộ chiến sĩ hy sinh trên biên giới phía bắc: Các em đi khi mười tám tuổi xuân/ Và để lại những trái tim trong trắng/ Tiếng các em thét gọi nhau trong chiến hào khói lửa/ Còn cháy lòng bao chiến sĩ xung phong... Phan Vỹ cũng có những vần thơ xúc động về những người lính trẻ ngã xuống nơi sóng nước Trường Sa: Tháng ba này chúng tôi đến Trường Sa/ Qua đảo Gạc Ma hai mươi năm về trước/ Thả hoa tươi lặng lẽ viếng hương hồn/ Trước mặt trời lên! Đồng đội ơi có biết/ Hoa trắng tươi nguyên như lời hẹn ước/ Các anh ơi! Thương lắm chỗ anh nằm/ Sóng vỗ ngàn năm lặn sâu trong đáy nước/ Hương hồn về gọi mẹ biết bao đêm (Tổ quốc đón anh về). Không thể nói hết tình cảm chất chứa trong các bài thơ viết về liệt sĩ. Cứ mỗi lần lặng lẽ đọc lại những bài thơ ấy, ta như gặp được một miền thiêng liêng xao động...