Kiểm soát quyền lực của Ðảng nhằm phòng chống tham nhũng, tiêu cực

Trong hệ thống chính trị nước ta, Ðảng Cộng sản Việt Nam là Ðảng lãnh đạo, Ðảng cầm quyền duy nhất, mỗi sự vận động thay đổi trong nội bộ Ðảng đều sẽ tác động trực tiếp đến tổ chức và hoạt động của toàn hệ thống chính trị, đến đời sống xã hội một cách mạnh mẽ.
0:00 / 0:00
0:00
Quang cảnh Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Ảnh | ĐĂNG KHOA
Quang cảnh Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Ảnh | ĐĂNG KHOA

Vì vậy, kiểm soát quyền lực đối với Ðảng có vai trò quyết định đối với việc kiểm soát quyền lực của cả hệ thống chính trị, nhằm xây dựng Ðảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Để kiểm soát quyền lực, ngay từ khi được thành lập năm 1930, Đảng ta đã thông qua Điều lệ Đảng, trong đó quy định: "Trách nhiệm của các đảng viên và các đảng bộ là giữ theo kỷ luật của Đảng. Nếu không chấp hành những nghị quyết của Đảng, hoặc phạm những điều mà đảng cho là sai lầm thì do đảng bộ mình lấy quy luật mà xử phạt chỉ trích, giải tán ủy viên, giải tán cả đảng bộ, tạm thời không cho làm việc trọng yếu của Đảng, khai trừ tạm thời hoặc vĩnh viễn".

Trong suốt quá trình xây dựng Đảng, vấn đề kiểm soát quyền lực của Đảng luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta chú trọng. Trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Kiểm tra - Không phải ngày nào cũng kiểm tra. Nhưng thường thường kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm", "Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được".

Sau này, vấn đề kiểm soát quyền lực đối với Đảng được tiếp cận ngày càng khoa học, chặt chẽ, bài bản hơn. Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30/10/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) yêu cầu: "Các cấp ủy, tổ chức đảng chỉ đạo rà soát, hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức, có quyền, theo hướng quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó".

Đại hội XIII của Đảng đã đề ra giải pháp đột phá thứ ba trong phòng chống tham nhũng (PCTN) là: "Kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, quan liêu; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát và kiểm soát chặt chẽ quyền lực".

Thời gian vừa qua, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng có nhiều chỉ đạo liên quan đến vấn đề kiểm soát quyền lực nhằm PCTN, tiêu cực: "Mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền lực càng cao trách nhiệm càng lớn; lạm dụng, lợi dụng quyền lực phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý".

Theo nguyên Phó Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản Nhị Lê, để xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực, cùng với các nhân tố cấu thành cơ chế (điều kiện cần và đủ, phương thức thực thi, các công cụ và điều kiện hỗ trợ...), phải có đủ ba nhân tố căn bản, có tính rường cột hợp thành và chi phối cơ chế kiểm soát quyền lực, đó là: Quốc pháp - Đảng cương - Sự tín nhiệm của nhân dân. Nếu thiếu đi một trong ba nhân tố căn bản này, nhất định sẽ không có bất cứ một cơ chế kiểm soát quyền lực nào tương thích và hữu hiệu đáp ứng với tình hình hiện nay.

PGS,TS Vũ Văn Phúc cho rằng, để kiểm soát quyền lực thật sự có hiệu quả đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người có chức, có quyền phải tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu để trở thành người thật sự có "tâm", có "tầm", vượt lên chính mình, vượt lên ma lực cám dỗ của quyền lực, của đồng tiền.

Những năm gần đây, kiểm soát quyền lực của Đảng đang tỏ rõ hiệu lực, hiệu quả và sức chiến đấu của Đảng, nhất là trong PCTN, tiêu cực. Hàng loạt các quy định của Đảng về vấn đề này được sửa đổi, bổ sung, thể hiện rõ quyết tâm chấn chỉnh kỷ luật Đảng, "không có ngoại lệ, không có vùng cấm" như: Quy định số 205-QĐ/TW của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền; Ban Chấp hành Trung ương ban hành các Quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng, về thi hành Điều lệ Đảng, về những điều đảng viên không được làm, về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ và Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Các văn bản này cũng bổ sung quy định xử lý kỷ luật đối với cả tổ chức đảng đã hết nhiệm kỳ hoạt động, đã giải thể hoặc thay đổi do chia tách, sát nhập về mặt tổ chức; đảng viên đã chuyển công tác, nghỉ việc, nghỉ hưu.

Đặc biệt là, bổ sung nguyên tắc: "Công tác kiểm tra, giám sát phải kịp thời phát hiện nhân tố mới, tích cực để phát huy, phải bảo vệ cái đúng, bảo vệ người tốt, cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá vì lợi ích chung; phải chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn, khắc phục khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên ngay từ khi còn mới manh nha, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng. Khi các vụ việc vi phạm được phát hiện, phải cương quyết xử lý kỷ luật nghiêm minh, kịp thời để răn đe và giáo dục". Điều này có nghĩa kiểm soát quyền lực không chỉ nhằm tìm ra sai phạm, xử lý mà còn phải ngăn ngừa từ sớm những mầm mống, loại trừ nguy cơ và nuôi dưỡng những điều tích cực.

Từ năm 2012 đến 2022, cấp ủy, Ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp đã thi hành kỷ luật 2.740 tổ chức đảng, hơn 167.700 cán bộ, đảng viên; trong đó có 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng; kỷ luật 170 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 4 Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị; 29 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương; 50 sĩ quan cấp tướng.

Riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến tháng 6 năm 2022 đã thi hành kỷ luật 50 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, cao hơn gấp 4 lần so với nhiệm kỳ khóa XI và bằng gần một nửa số cán bộ cấp cao bị xử lý của nhiệm kỳ khóa XII.

Đây là một bước đột phá trong công tác kiểm soát quyền lực của Đảng. Kết quả này đã tạo ra sức răn đe rất lớn trong các cán bộ, đảng viên, chấn chỉnh kỷ luật của Đảng, góp phần ngăn chặn tham nhũng, tiêu cực.

Tuy nhiên, một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cấp ủy vẫn chưa coi trọng đúng mức vai trò của kiểm soát quyền lực đối với cán bộ, đảng viên, chưa kịp thời lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện cho UBKT thực hiện nhiệm vụ của mình. Kiểm tra, giám sát đối với cấp ủy viên cùng cấp, người đứng đầu, người có chức vụ, quyền hạn và một số lĩnh vực xây dựng pháp luật, thanh tra, kiểm toán, PCTN, tư pháp, tổ chức cán bộ chưa thật mạnh mẽ.

Việc tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý vi phạm trong nội bộ vẫn là khâu yếu. UBKT cùng cấp cũng chưa mạnh dạn tham mưu với cấp ủy để kiểm tra những vụ việc có dấu hiệu vi phạm. Ở địa phương, nhất là cấp huyện, sự chuyển biến chưa mạnh.

Một số đơn vị còn tình trạng nể nang, né tránh, đùn đẩy, trông chờ vào sự chỉ đạo của cấp ủy và UBKT cấp trên; nhiều vi phạm xảy ra từ lâu nhưng không được phát hiện; phụ thuộc vào thông tin từ đơn thư tố cáo, khiếu nại, dư luận, phản ánh hoặc chỉ kiểm tra khi các vi phạm đã rõ, đã được cơ quan điều tra kết luận...

Còn có tổ chức đảng thiếu bản lĩnh, dĩ hòa vi quý; cá biệt có biểu hiện bao che cho cán bộ, đảng viên có chức, có quyền vi phạm. Kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ thực hiện chưa tốt. Chưa có quy định của Đảng về kiểm soát quyền lực trong xây dựng chính sách, pháp luật để PCTN chính sách.

Chính vì vậy, để công cuộc kiểm soát quyền lực của Đảng bảo đảm tính bền vững thì cần phải tiếp tục hoàn thiện các chính sách, quy định của Đảng, nhất là trong một số lĩnh vực còn khoảng trống về quy định hoặc khó phát hiện sai phạm như xây dựng chính sách, pháp luật để PCTN chính sách, hạn chế "nhóm lợi ích", "sân sau", "tư duy nhiệm kỳ"...

Khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, "trông chờ, nghe ngóng", "nhẹ trên, nặng dưới" trong kiểm tra, xử lý sai phạm, uốn nắn những khuyết điểm từ lúc manh nha. Kiện toàn tổ chức bộ máy của các ban đảng, đặc biệt là UBKT đảng các cấp. "Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong hoạt động của cấp ủy, phân bổ quyền lực hợp lý, khoa học; kiên quyết ngăn chặn những vi phạm trong nguyên tắc hoạt động của cấp ủy, không để cấp ủy viên biến công việc, lĩnh vực mà mình được phân công phụ trách thành "lãnh địa riêng", không chịu sự lãnh đạo và kiểm tra, giám sát của tập thể cấp ủy", PGS, TS Vũ Trọng Lâm nhấn mạnh. Người đứng đầu cấp ủy các cấp tiếp tục chỉ đạo, lãnh đạo việc kiểm soát quyền lực với tinh thần quyết tâm "không dừng, không nghỉ", "không chùng xuống", qua đó tiếp tục chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương của Đảng, góp phần phòng ngừa, xử lý tham nhũng, tiêu cực, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc kiểm soát quyền lực của cả hệ thống chính trị.