Ðáp ứng đầy đủ điện năng trong mọi tình huống

Bộ Công thương vừa chính thức trình Ðề án Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 (Quy hoạch điện VIII) lên Chính phủ. Ðược xây dựng trong bối cảnh đặc biệt của đất nước cũng như của ngành điện, có thể nói, việc lập Quy hoạch điện (QHÐ) VIII chịu thách thức lớn nhất từ trước đến nay.

Nhà máy Thủy điện Hòa Bình mở rộng thêm hai tổ máy với tổng công suất 480 MW.
Nhà máy Thủy điện Hòa Bình mở rộng thêm hai tổ máy với tổng công suất 480 MW.

Vấn đề đang được quan tâm nhất đối với quy hoạch mới đó là cơ cấu nguồn điện sẽ được hoạch định ra sao, đặc biệt là năng lượng tái tạo (NLTT) được phát triển như thế nào để bảo đảm mục tiêu an ninh cung ứng điện, cơ bản đáp ứng đủ điện cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội với chất lượng ngày càng được cải thiện?

Tỷ lệ nhiệt điện than, thủy điện giảm mạnh

Những biến động trong giai đoạn thực hiện QHÐ VII và QHÐ VII điều chỉnh với việc dừng thực hiện Nhà máy điện hạt nhân Ninh Thuận; rồi việc bùng nổ đầu tư các dự án điện mặt trời, điện gió trong khi việc xây dựng các nhà máy nhiệt điện lại chậm trễ và khó khăn; nguồn năng lượng sơ cấp dần cạn kiệt và khả năng cung cấp hạn chế, dẫn đến việc sớm phải nhập khẩu nhiên liệu… Tất cả đang tạo nên sức ép rất lớn đến nguồn cung điện, nhất là khi nhu cầu điện đã được nhìn thấy trước là sẽ tăng cao.

Trong bối cảnh ấy, QHÐ VIII đã tập trung vào tính toán, phân tích, đánh giá và xác định, dự kiến tới năm 2030, tổng công suất đặt nguồn điện
của Việt Nam đạt 130.371 - 143.839 MW, trong đó, nhiệt điện than chiếm 28,3% - 31,2%, nhiệt điện khí (tính cả LNG) chiếm 21,1% - 22,3%; thủy điện lớn, vừa và thủy điện tích năng chiếm 17,73% - 19,5%; nguồn điện NLTT (điện gió, mặt trời, điện sinh khối…) chiếm 24,3% - 25,7%; nhập khẩu điện chiếm 3 - 4%.

Ðến năm 2045 tổng công suất đặt của nguồn điện đạt gần 261.951 MW - 329.610 MW, trong đó, nhiệt điện than chiếm 15,4% - 19,4%; nhiệt điện khí (tính cả LNG) chiếm 20,6% - 21,2%; thủy điện lớn, vừa và thủy điện tích năng chiếm 9,1% - 11,1%; nguồn điện NLTT (thủy điện nhỏ, điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối…) chiếm 26,5% - 28,4%; nhập khẩu khoảng 3,1%. Tỷ lệ nhiệt điện than giảm mạnh từ 29% năm 2020 xuống còn khoảng 15% - 19% vào năm 2045. Ðây là sự khác biệt giữa QHÐ VII điều chỉnh và QHÐ VIII, phù hợp điều kiện phát triển kinh tế của nước ta và phù hợp xu thế phát triển năng lượng của thế giới.

Thủy điện vốn là nguồn NLTT, có điều kiện vận hành linh hoạt, phù hợp chế độ phủ đỉnh biểu đồ phụ tải, nhất là trong cơ cấu nguồn điện của hệ thống điện có điện mặt trời và điện gió ngày càng tăng. Tuy nhiên, lý do tỷ lệ nguồn thủy điện giảm dần vì tiềm năng thủy điện lớn của nước ta cơ bản đã khai thác và đưa vào vận hành. Khả năng khai thác các công trình thủy điện còn lại hầu hết đã được nghiên cứu đầu tư và đang trong giai đoạn chuẩn bị xây dựng, hoặc đang xây dựng.

Theo rà soát tiến độ thực hiện của các dự án thủy điện giai đoạn 2020 - 2025, hệ thống có thể bổ sung khoảng 1.840 MW thủy điện vừa và lớn (gồm cả các dự án mở rộng, như: Hòa Bình mở rộng thêm hai tổ máy với tổng công suất 480 MW, Yaly mở rộng thêm hai tổ máy với tổng công suất 360 MW và Trị An mở rộng thêm hai tổ máy với tổng công suất 200 MW). Các dự án thủy điện nhỏ có khả năng phát triển thêm khoảng 2.700 MW trong giai đoạn từ nay đến năm 2030. Do đó, theo dự báo đến năm 2045, tỷ lệ thủy điện chỉ còn chiếm 9% trong cơ cấu nguồn của hệ thống điện nước ta.

Cẩn trọng với cơ cấu nguồn từ khí LNG

QHÐ VIII định hướng phát triển các nguồn dùng nhiên liệu truyền thống chuyển sang khí LNG với quy mô rất lớn (từ 0% năm 2020 lên ~12.550 - 17.100 MW năm 2030, chiếm ~10 - 12% tổng quy mô nguồn năm 2030, tăng dần đến 43 nghìn MW, chiếm 15 - 17% tổng quy mô nguồn năm 2045), nguồn cung chủ yếu là nhập khẩu từ nước ngoài, như vậy, có thể sẽ gặp phải các khó khăn tương tự việc phát triển nguồn nhiệt điện than trong giai đoạn vừa qua. Do đó, định hướng phát triển các nhà máy điện sử dụng khí LNG cần tính toán trên cơ sở khả năng nhập khẩu LNG và đồng bộ với xây dựng hạ tầng cung cấp LNG (kho cảng, hệ thống lưu trữ, tái hóa, đường ống...) trên phạm vi cả nước nhằm tối ưu trong đầu tư, tiết kiệm chi phí xây dựng, đặc biệt là hệ thống kho cảng và lưu trữ.

Giá nhiên liệu LNG nhập khẩu luôn là yếu tố bất định, có nhiều biến động trong thời gian qua cũng như giai đoạn sắp tới, dẫn đến các vấn đề về giá, cơ chế giá, hình thức đầu tư… là các rủi ro có thể dẫn đến việc phát triển các nguồn điện sử dụng nhiên liệu LNG không được cao như định hướng, gây ảnh hưởng đến an ninh năng lượng nói chung và an ninh cung cấp điện nói riêng.

Ðáp ứng đầy đủ điện năng trong mọi tình huống -0
Dự án Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 4 mỗi năm cung cấp lên lưới điện quốc gia 7,2 tỷ kWh. 

Bài toán đối với năng lượng tái tạo

Theo QHÐ VIII, tỷ trọng nguồn NLTT so với tổng công suất đặt toàn quốc như sau: Năm 2020 là 24,4%, đến năm 2030 là 24,3% - 25,7% và đến năm 2045 là 26,5% - 28,4%. Tỷ trọng nguồn NLTT đã được ưu tiên phát triển phù hợp khả năng bảo đảm an toàn hệ thống với giá thành điện năng hợp lý.

Có xem xét đến tỷ trọng nguồn NLTT đưa vào cân bằng công suất trong cân đối nguồn - tải (dựa trên số giờ huy động công suất khả dụng của nguồn NLTT trên phạm vi tỉnh, vùng, toàn quốc) và khả năng dự phòng từ các nguồn khác khi nguồn NLTT không thể vận hành. Tuy nhiên, khi thực hiện cần phân bổ kịch bản phát triển NLTT tối ưu theo khu vực và thời gian thực hiện, trong đó, cần ưu tiên phát triển NLTT tại các khu vực lưới điện đáp ứng yêu cầu giải tỏa công suất, đặc biệt khu vực phía bắc (giai đoạn 2021 - 2030); giảm khối lượng đầu tư nguồn NLTT giai đoạn 2021 - 2025 và chuyển sang thực hiện giai đoạn 2026 - 2030 để bảo đảm tính khả thi thực hiện và ưu tiên thực hiện các nguồn điện có đặc tính điều chỉnh công suất linh hoạt (tốc độ nhanh, dải điều chỉnh rộng) như mở rộng các nhà máy thủy điện, hệ thống pin tích trữ (BESS), các nhà máy thủy điện tích năng.

Theo nhìn nhận của nhiều chuyên gia, nhà quản lý, dù Việt Nam có các nguồn điện linh hoạt bổ sung cho hệ thống điện, việc cắt giảm nguồn năng lượng gió, mặt trời với một tỷ lệ thích hợp là điều không thể tránh khỏi đối với một hệ thống điện tích hợp NLTT ở quy mô lớn...

Với chương trình phát triển điện lực QHÐ VIII, hằng năm Việt Nam cần đầu tư cho ngành điện khoảng 99,32 - 115,96 tỷ USD trong giai đoạn 2021 - 2030, trong đó, vốn đầu tư cho phát triển nguồn điện khoảng 85,70 - 101,55 tỷ USD (mỗi năm khoảng 8,57 - 10,15 tỷ USD) và khoảng 180,1 - 227,38 tỷ USD/năm trong giai đoạn 2031 - 2045.

Ðể thực hiện, QHÐ VIII đã đề cập các giải pháp, cơ chế thực hiện quy hoạch như: Ðề xuất sửa đổi Luật Ðiện lực theo hướng linh hoạt hơn đối với yêu cầu đầu tư các công trình điện, bảo đảm thu hút mọi nguồn lực xã hội trong phát triển ngành điện; đề xuất cơ chế xây dựng Kế hoạch phát triển điện lực trong ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; đề xuất cơ chế đấu thầu lựa chọn chủ đầu tư các dự án điện; đề xuất cơ chế xã hội hóa đầu tư lưới điện truyền tải... Các đề xuất này sẽ từng bước được nghiên cứu, hoàn thiện để bảo đảm thực hiện xây dựng, quản lý và vận hành các công trình điện theo đúng quy hoạch, đặc biệt trong bối cảnh đầu tư từ các nguồn vốn tư nhân, nguồn vốn nước ngoài chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư phát triển điện lực.

Công tác quy hoạch phát triển điện lực được quan tâm ngay từ những năm chiến tranh chống đế quốc Mỹ. Từ năm 1971, ngành điện đã xây dựng đề án sơ đồ lưới điện. Ðến năm 1980, bắt đầu xây dựng Tổng sơ đồ phát triển điện lực quốc gia. Kể từ đó đến nay, ngành điện đã xây dựng bảy QHÐ quốc gia gắn với kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Ðể phù hợp thực tế, Chính phủ đã hai lần điều chỉnh quy hoạch là quy hoạch giai đoạn V và giai đoạn VII. Việc thực hiện bảy QHÐ Quốc gia, đã đem lại cho ngành điện một hệ thống cơ sở hạ tầng điện lực phát triển nhanh, đồng bộ và hiện đại trong các khâu sản xuất - truyền tải - phân phối và dịch vụ phụ trợ.

THANH MAI