Ruộng muối của gia đình tôi sát biển, có đê bao mọc đầy lau lách và dứa dại, ngoài đê là bãi cát dài có nhiều đám cỏ mặt trời, mỗi khi có trận gió to, những bông hoa cỏ lăn dọc bãi biển như những chiếc chong chóng, chúng tôi líu ríu đuổi theo nhưng thường không kịp. Tiếp đến là bãi cát sát mép nước có rất nhiều con còng còng (dã tràng), khi không có người chúng lên xe cát đầy kín bãi, vậy mà khi chúng tôi đến nơi chúng trốn hết không còn thấy bóng dáng con nào. Ngoài kia là sóng nước mênh mông vỗ vào bờ nghe dào dạt, bồi hồi. Những lúc sóng yên biển lặng, nhiều thuyền đánh cá cập bờ. Ngư dân kéo lưới, cá nhảy lên lấp lóa ánh bạc.
Làm ra hạt muối đã vất vả, những ngày bán muối còn vất vả hơn rất nhiều. Hằng ngày gia đình tôi đã chuyển dần muối về cạnh kho muối của Chi cục Muối tỉnh Nam Định nằm gần chợ Kiên Chính. Nơi đây có bến muối lớn, các con tàu, thuyền có trọng tải vài ba chục tấn vào ăn muối rất đông. Trên bãi đất gần bến có hàng chục kho muối hình chữ A lợp cỏ bổi (phụ phẩm của cây cói) xếp thành dãy ngay ngắn. Mỗi kho có sức chứa lớn hàng mấy trăm tấn muối, xuất, nhập nhộn nhịp, náo nhiệt. Kho tạm của các gia đình bên cạnh kho muối của Chi cục Muối chỉ là những tấm cót to quây tạm lại, đậy lá lên che mưa nắng, cát bụi.
Ngày bán muối nhà nào cũng có vài ba người vất vả đong muối vào phương (hộc gỗ đựng được 18,3 kg muối) rồi cất lên đầu một người đội vào kho, khi đi ra thủ kho sẽ ném cho một chiếc thẻ gỗ, sau này là thẻ nhựa, vào cái phương trống. Thẻ này sau đó được dùng thanh toán với Chi cục Muối để lấy tiền.
Năm 1966 vùng quê Hải Hậu của tôi bị ném bom ác liệt. Bom phá cầu đường, trường học, nhà dân… Kho muối cứ đêm đêm lại trúng bom cháy sáng rực cả bầu trời. Cả một dãy kho lớn cháy trụi trơ ra những núi muối đen sì. Người ta phải làm mái che tạm khi tàu thuyền chưa kịp chuyển muối đi. Ban ngày máy bay ầm ầm qua lại rồi trút bom bất cứ lúc nào. Ruộng muối cũng bị tàn phá. Có bạn học sinh của trường tôi bị trúng bom trên đường đi học, rất thương tâm.
Nhưng người dân đồng muối gan dạ lắm, nhà nào cũng có hầm trú ẩn, khi có máy bay bổ nhào về phía mình thì phải xuống hầm thật nhanh vì bom có thể trút xuống đúng chỗ mình. Còn khi nó bay quá đầu mình mới chúi xuống thì không sợ vì bom sẽ trút ở xa nên vẫn ung dung làm tiếp.
Ngày nay đồng muối Tang Văn xưa đã bị biển lấn hết rồi, ngôi nhà thờ gần đó bị đổ gần hết còn bức tường và tháp chuông, trở thành nơi mọi người về chiêm ngưỡng (gọi là Nhà thờ đổ Hải Lý). Con sông dẫn nước mặn cho cánh đồng muối và bến chứa muối đợi bán ngày xưa giờ đã biến thành làng mạc cả rồi. Các kho muối cũng không còn. Đồng muối giờ bỏ hoang cỏ mọc um tùm, một số chuyển thành ao nuôi tôm cá, một số thành vườn rau, vườn cây trái. Chỉ còn lác đác vài nhà làm muối. Mỗi lần trở về quê hương, thăm lại vùng muối ngày xưa, tôi vẫn còn y nguyên cảm giác cái nắng chang chang cháy bỏng trên đỉnh đầu và cát bỏng giãy dưới chân mình.