Cần hàng rào kỹ thuật bảo vệ ngành thép

Chúng ta đang chứng kiến nghịch lý, tiêu thụ và xuất khẩu thép của các doanh nghiệp trong nước những tháng đầu năm sụt giảm tới 20% so năm 2022, trong khi lượng thép nhập khẩu vào Việt Nam vẫn ở mức cao. Việc tham gia các hiệp định thương mại tự do (FTA) giúp sản xuất trong nước hội nhập, song điều đáng nói là các hàng rào kỹ thuật bảo vệ sản xuất trong nước, kiểm soát chất lượng sản phẩm còn chưa tương xứng. Điều này khiến các doanh nghiệp thép trong nước bị bóp nghẹt.
0:00 / 0:00
0:00
Sản xuất tại nhà máy thép Việt Đức. Ảnh: SONG ANH
Sản xuất tại nhà máy thép Việt Đức. Ảnh: SONG ANH

Nhập khẩu tăng cao

Theo thống kê của Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA), trong 5 tháng đầu năm 2023, lượng nhập các sản phẩm thép vào Việt Nam đạt hơn 5,06 triệu tấn; trong đó lượng nhập khẩu thép từ Trung Quốc đạt hơn 2,65 triệu tấn, chiếm hơn 52% tổng sản lượng thép nhập khẩu từ tất cả các quốc gia. Đặc biệt, trong tháng 3/2023, lượng nhập thép từ Trung Quốc tăng 146% so tháng 3/2022.

Trong khi đó, sản xuất thép thô trong nước chỉ đạt hơn 7,5 triệu tấn, giảm 21% so cùng kỳ 2022; tiêu thụ đạt 7,6 triệu tấn, giảm 17% so cùng kỳ 2022; sản xuất thép thành phẩm của các doanh nghiệp đạt hơn 11 triệu tấn, giảm 21,8% so cùng kỳ năm 2022. Bán hàng thép thành phẩm đạt gần 10,4 triệu tấn, giảm 19,4% so cùng kỳ năm 2022. Ông Nguyễn Văn Sưa, chuyên gia ngành thép cho rằng, việc nhập khẩu tăng cao khi hàng hóa trong nước ế ẩm sẽ gây sức ép đối với ngành thép Việt Nam. Ngành thép trong nước có nguy cơ mất cơ hội việc làm cho khoảng 40.000 lao động; hàng tỷ USD phải chi ra để nhập khẩu mỗi năm.

Nói về nguyên nhân, đại diện VSA cho hay, tác động chính của việc sụt giảm trong ngành thép thời gian qua có hai vấn đề quan trọng, đó là: ảnh hưởng mạnh từ thị trường bất động sản đóng băng và xuất khẩu gặp khó. Cùng đó, giá bán các sản phẩm thép cũng giảm sâu, hơn 10% so giai đoạn đầu năm. Những yếu tố bất lợi trên đã khiến cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thép gặp khó, thua lỗ, nhiều doanh nghiệp phải dừng luân phiên và sản xuất cầm chừng.

Trước sự xâm nhập các sản phẩm thép từ nước ngoài, câu chuyện về bảo hộ trong ngành thép lại được đặt ra. Nhiều chuyên gia cho rằng, Việt Nam còn bỏ ngỏ trong giải quyết các vấn đề liên quan thiết lập rào cản thương mại.

Ông Nguyễn Văn Sưa nhận định, việc thiết lập rào cản thương mại và hàng rào kỹ thuật chiếm vị trí quan trọng trong các hiệp định thương mại mà Việt Nam tham gia. Bởi đây là công cụ ngoài việc giúp sức cho sản xuất trong nước, nâng chất lượng sản phẩm cũng khiến Việt Nam nhận được nhiều lợi thế trong tương lai khi xuất khẩu. “Gia nhập nhiều FTA, đồng nghĩa áp lực cạnh tranh gia tăng không chỉ với các sản phẩm xuất khẩu mà ngay đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu thụ nội địa. Nguy cơ hàng giả, hàng nhái, hàng đội lốt “hàng Việt Nam” để lẩn tránh quy tắc xuất xứ và thu lợi từ các FTA, lẩn tránh các biện pháp áp thuế đang gia tăng. Điều này đem lại nhiều rủi ro khiến Việt Nam có thể rơi vào “bẫy” bị áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại như áp thuế chống phá giá, nếu thiếu các biện pháp hữu hiệu để kiểm soát tình hình”, ông Sưa nói.

Cần hàng rào kỹ thuật

Các doanh nghiệp và chuyên gia cho rằng, với hàng rào kỹ thuật của các quốc gia trên thế giới đang áp dụng thì sản phẩm nhập khẩu vào các quốc gia đó, bất kỳ là sản phẩm nào, có gây mất an toàn hay không, nhà nhập khẩu phải tuân thủ rất nhiều thủ tục. Có thể kể đến thủ tục tối thiểu là nhà nhập khẩu phải đăng ký chủng loại mặt hàng với cơ quan quản lý chuyên ngành và phải được cơ quan/tổ chức có thẩm quyền của quốc gia nhập khẩu đánh giá thực tế sản xuất, chất lượng sản phẩm tại nhà máy sản xuất, cấp giấy chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn chất lượng của quốc gia nhập khẩu. Bản chất hàng rào kỹ thuật này được lập ra với mục đích kiểm soát tuân thủ chất lượng của quốc gia tiếp nhận, điều tiết lượng hàng nhập khẩu, tránh đe dọa đến sản xuất trong nước.

Theo VSA, với một quốc gia đã cam kết thuế quan sâu rộng như Việt Nam thì điều này thật sự cần thiết. Chính phủ cần có chính sách quyết liệt để hỗ trợ sản xuất trong nước phát triển, tăng sản xuất công nghiệp, sản phẩm hỗ trợ, tiến tới đa dạng hóa sản phẩm thay thế dần hàng nhập khẩu. Ngoài ra, phải trải qua quá trình kiểm tra nhà máy, kiểm tra sản phẩm hoặc kiểm tra dịch vụ theo các tiêu chuẩn của quốc gia nhập khẩu. Mục đích nhằm ngăn chặn tình trạng hàng kém chất lượng tràn vào trong nước.

Hiện nay tại Việt Nam, các điều kiện nhập khẩu rất “lỏng lẻo”. Đơn cử, thép không nằm trong mặt hàng nhóm 2 gây mất an toàn theo TT 06/2020/TT-BKHCN nên không yêu cầu công bố hợp quy, kiểm tra sản phẩm, hàng hóa nhập khẩu. Thép nhập khẩu hiện nay đa phần thuế nhập khẩu là 0%, hàng hóa luồng xanh nên được miễn kiểm tra chi tiết về hồ sơ và hàng hóa.

Trước đây, theo quy định tại Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-BCT-BKHCN, để được thông quan, thép nhập khẩu phải trải qua hai khâu kiểm tra: Kiểm định chất lượng tại tổ chức kiểm định được chỉ định. Sau đó, doanh nghiệp phải đem giấy kiểm định qua Chi cục Tiêu chuẩn-đo lường-chất lượng của Sở Khoa học và Công nghệ để được cấp thông báo kết quả đạt chất lượng. Tuy nhiên, ngày 21/9/2017, Bộ Công thương đã ban hành Thông tư 18/2017/TT-BCT bãi bỏ quy trình nhập khẩu thép. Do vậy, việc nhập khẩu các sản phẩm thép vào Việt Nam được nới lỏng và không có quy trình kiểm tra chất lượng như trước.

Do vậy, các doanh nghiệp, hiệp hội kiến nghị cần xem xét xây dựng quy trình, thủ tục kiểm tra các mặt hàng nói chung và thép nhập khẩu vào Việt Nam nói riêng, cần phải có Chứng nhận tuân thủ tiêu chuẩn chất lượng của Việt Nam cấp phép cho hàng hóa nhập khẩu Việt Nam. Ngoài ra, để hỗ trợ sản xuất trong nước trong bối cảnh thị trường khó khăn, có thể tăng cường điều tra áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại phù hợp đối với sản phẩm thép. Đồng thời, các bộ, ngành tăng cường cảnh báo, dự báo xu thế thị trường hàng hóa, góp phần hỗ trợ cho sự phát triển ổn định của sản xuất trong nước.