Theo Phó Cục trưởng Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng (Bộ Công thương) Trịnh Anh Tuấn, Việt Nam chính thức có Luật Cạnh tranh năm 2004. Trong suốt 12 năm thực thi luật này, tính đến năm 2016, số vụ việc điều tra liên quan các hành vi hạn chế cạnh tranh là tám vụ, trong đó có sáu vụ đã được Hội đồng Cạnh tranh tiến hành xử lý, thu về ngân sách Nhà nước tổng số tiền phạt và phí xử lý gần 5,5 tỷ đồng. Các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh thường diễn ra dưới nhiều hình thức, trong đó quảng cáo chiếm 62%, bán hàng đa cấp bất chính chiếm 17%. Đến hết năm 2016, đã có hơn 330 hồ sơ khiếu kiện, trong đó có 182 vụ đã được điều tra, xử lý. Về kiểm soát hành vi tập trung kinh tế, Bộ Công thương thụ lý 32 vụ, tham vấn 45 vụ, với 189 DN có liên quan.
Viện trưởng Nghiên cứu Quản lý Kinh tế T.Ư (CIEM) Nguyễn Đình Cung cho rằng, vấn đề cạnh tranh đã được bàn luận khá nhiều, song rất nhiều thị trường tại Việt Nam vẫn thiếu tính cạnh tranh đúng nghĩa. Thí dụ như thị trường điện, thị trường đất đai… lâu nay vẫn tồn tại những vấn đề phi cạnh tranh. Đó là một cơ chế làm méo mó KTTT. Cạnh tranh là linh hồn, nền tảng của nền KTTT, không có cạnh tranh thì không có nền KTTT. Mức độ cạnh tranh càng lớn, cạnh tranh càng công bằng thì thể hiện mức độ phát triển thị trường càng cao. Trong tư duy quản lý của nhiều bộ, ngành vẫn sợ cạnh tranh, lo cạnh tranh nhiều quá. Nền kinh tế nhờ cạnh tranh sẽ đạt được loạt hiệu quả từ người cấp vốn, người sản xuất đến người lao động… từ đó, năng suất lao động được cải thiện. Do vậy, đừng sợ cạnh tranh, đừng lo lắng quá nhiều về cạnh tranh.
Theo nhận xét của Trưởng ban Pháp chế, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Đậu Anh Tuấn, các cơ quan Nhà nước dường như bị bệnh “nghiện quản lý”. Đằng sau nhiều giấy phép kinh doanh (GPKD), điều kiện kinh doanh (ĐKKD) có bóng dáng lợi ích, bởi cấp GPKD là xin - cho, muốn xin - cho thì người xin phải “biết điều”. Qua rà soát, có một số dạng ĐKKD điển hình đang gây khó khăn cho DN, như ĐKKD thiếu minh bạch, áp đặt, phân biệt về quy mô, can thiệp quyền tự quyết của DN, can thiệp thị trường bằng các biện pháp, mệnh lệnh hành chính. Thí dụ như quy định đơn vị vận tải taxi phải có ít nhất 50 xe nếu trụ sở đặt tại các thành phố trực thuộc T.Ư; thương nhân xuất khẩu, nhập khẩu khí hóa lỏng phải có kho tổng dung tích các bồn chứa tối thiểu 3.000 m³; hay yêu cầu điều kiện về nghiệp vụ chuyên môn của các nhân viên phục vụ trên phương tiện ô-tô, tàu thủy nội địa…
Ông Đậu Anh Tuấn phân tích, khi quy định không phù hợp thực tiễn, quá khắt khe, nếu DN tuân thủ đúng thì không thể cạnh tranh. Còn không tuân thủ thì nguy cơ bị coi là vi phạm pháp luật luôn lơ lửng trên đầu, họ như con tin của công chức “nhiều quyền, thiếu tâm”. Rồi “hàng rừng các quy định” khiến DN càng có danh tiếng, càng thành công thì càng rủi ro. Từ những thiệt hại to lớn từ hàng rào GPKD, phải có hành động thực chất, quyết liệt hơn. Theo đó, cần có cơ chế giám sát, xử lý bộ ngành, cơ quan nhà nước không bãi bỏ ĐKKD mà Chính phủ đã yêu cầu và giám sát việc sinh thêm giấy phép mới.
Theo chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, hiện nay, Chính phủ đang hành động tích cực rà soát các ĐKKD để tiến tới xóa bỏ hơn 2.000 trong 5.000 ĐKKD đang tồn tại. Gần đây, Bộ Công thương tuyên bố cắt giảm 675 ĐKKD được dư luận hoan nghênh. Thế nhưng, tại sao lại để cho Bộ này đưa ra đến hơn 1.200 ĐKKD mà không bị “thổi phạt” ngay từ thời điểm ban đầu? Cho nên, đến bây giờ mới phải “cải cách khó nhọc”, “khổn khổ để cắt”…
Còn để bảo đảm cạnh tranh công bằng, Phó Viện trưởng CIEM Phan Đức Hiếu cho rằng, Luật Cạnh tranh phải tốt, hành vi phản cạnh tranh phải được xử lý kịp thời. Dự thảo Luật Cạnh tranh sửa đổi quy định, cơ quan cạnh tranh quốc gia là cơ quan tham mưu giúp Bộ trưởng Công thương thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nước về cạnh tranh, có nhiệm vụ tổ chức điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh, kiểm soát tập trung kinh tế và các nhiệm vụ khác… Dự thảo Luật Cạnh tranh sửa đổi có cách tiếp cận mới, nhìn vào bản chất và tác động thực tế đến hành vi cạnh tranh của các DN. Điều này đòi hỏi năng lực và vị trí phù hợp của cơ quan quản lý cạnh tranh để thực hiện điều tra, ra quyết định đúng đắn. Cơ quan quản lý cạnh tranh phải là cơ quan độc lập trong mọi trường hợp, kể cả khi “nằm” trong bộ. Một số nước trên thế giới quy định cơ quan quản lý cạnh tranh “thuộc” bộ nhưng có điều khoản rõ ràng cấm bộ can thiệp hoạt động của cơ quan này. Mục tiêu cuối cùng, chúng ta phải kiểm soát được hành vi độc quyền, loại bỏ các hành vi cạnh tranh không lành mạnh của DN. Phải điều chỉnh luật pháp, chính sách để quy mô, cường độ của cạnh tranh được tăng lên, thiết lập môi trường cạnh tranh công bằng…