Việc làm tại chỗ, ngoài giải quyết câu chuyện mưu sinh còn là mạch sống của cộng đồng, là cầu nối bền vững giữa con người và quê hương. Tại nhiều vùng quê, những mô hình việc làm tại chỗ như HTX chế biến nông sản, làng nghề truyền thống được mở rộng và đổi mới, du lịch cộng đồng dựa vào bản sắc văn hóa đang dần trở thành điểm sáng.
Mỗi doanh nghiệp một cộng đồng phát triển
Ở nhiều địa phương, những mô hình kinh tế sáng tạo đang mở ra cơ hội việc làm thiết thực, góp phần xóa bỏ nguyên nhân khiến lao động trẻ phải “đi xa” tìm kế sinh nhai.
Chế biến nông sản tại hợp tác xã (HTX) nông nghiệp là mô hình điển hình. Thay vì xuất bán nguyên liệu thô với giá trị thấp, các HTX đã tổ chức liên kết sản xuất, áp dụng kỹ thuật chế biến hiện đại, tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng cao và thị trường ổn định. Nhờ đó, mỗi mô hình có thể tạo từ 50 đến 150 việc làm ổn định cho lao động địa phương, giúp đào tạo bài bản, nâng cao tay nghề và thu nhập. Thí dụ, HTX Sinh Dược ở Ninh Bình đang giải quyết việc làm cho hơn 100 nhân sự tại địa phương, chưa kể lao động thời vụ. Các mô hình homestay như gia đình Tráng A Chu tại Sơn La hỗ trợ khoảng gần 100 người trong thôn bản cùng góp sức và nhận nguồn thu ở các mảng: Ẩm thực, văn nghệ, hướng dẫn viên, dịch vụ giao thông, vận chuyển…
Tiêu biểu có thể kể tới Ká Tuyền - cô gái sinh năm 1993 có cha là người X’Tiêng, mẹ là người Mạ đã nỗ lực phục hồi các nghề truyền thống để làm du lịch cộng đồng, thay đổi cuộc sống của nhiều đồng bào dân tộc ở Tà Lài, Đồng Nai. Đầu năm 2024, Dự án du lịch cộng đồng Tà Lài Eco Lodge của Ká Tuyền ra mắt. Nơi đây giờ đã thu hút khá đông khách du lịch trong nước và quốc tế. Nhờ đó, trẻ em làng bản có cơ hội giao tiếp, vui chơi, trau dồi tiếng Anh; người dân có thêm thu nhập qua các dịch vụ phụ trợ. Ká Tuyền giành giải Nhì cuộc thi Phụ nữ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tỉnh Đồng Nai; được chọn tham gia Chương trình Lãnh đạo nữ quyền trẻ châu Á 2024 tổ chức tại Thái Lan. Tà Lài Eco Lodge hiện tạo việc làm cho hàng trăm người dân địa phương với mức thu nhập bình quân mỗi người từ 7 triệu đồng/tháng.
Ở một số vùng quê, các làng nghề thủ công mỹ nghệ, dệt thổ cẩm, mây tre đan… đã phát triển quy mô, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Tại Đồng Tháp, anh Phan Văn Tuấn Anh (sinh năm 1988) ở xã Lai Vung sau quá trình học nghề kỹ sư ở thành phố Cần Thơ đã trở về quê để nghiên cứu, chế tạo máy dệt chiếu giúp tăng năng suất sản xuất gấp 5 lần so với phương pháp thủ công, đồng thời cải tiến mẫu mã, bổ sung hoa văn in để đáp ứng thị hiếu thị trường. Đến nay, cơ sở của anh đã sản xuất hơn 1.000 máy dệt chiếu cung cấp cho các làng nghề trong và ngoài tỉnh, đồng thời tạo việc làm cho nhiều lao động địa phương. Tại xã Đắk Rơ Wa (Quảng Ngãi, trước kia là Kon Tum), dù tốt nghiệp chuyên ngành mỹ thuật và có công việc ổn định ở Thành phố Hồ Chí Minh nhưng anh Huỳnh Nguyên Thông (sinh năm 1987) vẫn chọn làng Kon K’tu làm nơi gây dựng ước mơ khôi phục nghề dệt thổ cẩm của dân tộc Ba Na. Từ năm 2010 đến nay, thương hiệu thời trang và sản phẩm trang trí, lưu niệm Thông Bahnar không chỉ giữ gìn bản sắc văn hóa Ba Na mà còn mở ra hướng phát triển kinh tế bền vững cho người dân, góp phần làm sống dậy niềm tự hào dân tộc qua từng tấm vải thổ cẩm thủ công.
Phát triển du lịch kết hợp bảo tồn văn hóa giúp bà con nâng cao thu nhập, tiếp thêm niềm tự hào giới thiệu văn hóa truyền thống đến khách tham quan. Mọi người đều tích cực tham gia, từ làm bếp, dẫn khách đến tổ chức sự kiện, tạo thành một cộng đồng phát triển. Mỗi mô hình trên đều đóng góp hàng chục đến vài trăm việc làm ổn định, tạo ra tác động lan tỏa tích cực trong cộng đồng. Đặc biệt, tỷ lệ lao động nữ và người dân tộc được tham gia khá cao, góp phần giảm nghèo và nâng cao đời sống bền vững cho nhiều gia đình.
Cần “nuôi” những người tạo việc làm
Việc tạo ra công ăn việc làm chỉ là bước đầu trong hành trình phát triển kinh tế nông thôn bền vững. Để giữ chân người dân và giúp họ gắn bó lâu dài với quê hương, cần có một hệ sinh thái hỗ trợ toàn diện, từ đào tạo kỹ năng, liên kết vùng đến tiếp cận nguồn vốn ưu đãi. Giải pháp đào tạo nghề phải được triển khai đồng bộ, vừa truyền dạy kỹ năng chuyên môn vừa hướng đến nâng cao nhận thức về phát triển bền vững, quản lý tài chính và khả năng thích ứng thị trường. Theo giới chuyên môn, đào tạo nghề không đơn thuần truyền nghề mà còn là xây dựng tư duy làm kinh tế bài bản cho người lao động. Đây là nền tảng để họ phát triển lâu dài, không bị bỏ lại phía sau trong xu thế thị trường cạnh tranh.
Về mặt tài chính, chính sách cấp tín dụng ưu đãi cho người dân và các tổ chức kinh tế tập thể được xem là “đòn bẩy” quan trọng. Nguồn vốn ưu đãi giúp bà con có điều kiện đầu tư mở rộng sản xuất, nâng cấp trang thiết bị, tham gia đào tạo nghề. Tại Diễn đàn trực tuyến “Nghị quyết 68: Kiến tạo kỷ nguyên vàng cho doanh nghiệp nông nghiệp”, PGS, TS Ngô Trí Long đánh giá Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân là bước ngoặt về tư duy, đặt kinh tế tư nhân vào đúng vai trò đầu tàu tăng trưởng. Thế nhưng, ông cũng thẳng thắn: “Khó nhất vẫn là vốn và đất”. Cũng tại đây, ông Hồ Xuân Hùng, Chủ tịch Tổng hội Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam nhìn nhận: Muốn doanh nghiệp tư nhân phát triển trong nông nghiệp, cần tháo gỡ từ gốc, đặc biệt là cơ chế bảo hiểm nông nghiệp, vì không có bảo hiểm thì ngân hàng ngại cho vay mà không vay được vốn thì nông dân không thể đầu tư sản xuất lớn.
Thực tế, ngoài việc nguồn vốn cho vay có hạn thì thủ tục để tiếp cận các gói tín dụng ưu đãi, các quỹ hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp… cũng còn nhiều bất cập, các quy định chưa thống nhất mà nằm rải rác ở nhiều cấp độ văn bản luật khác nhau, do nhiều cơ quan khác nhau quản lý. Các chuyên gia kinh tế và các cá nhân tham gia khởi nghiệp đổi mới sáng tạo đều mong muốn, đề xuất các chính sách nhanh và mạnh hơn để hỗ trợ về thuế, các gói tín dụng đặc thù và các điều kiện huy động vốn khi chưa có tài sản thế chấp.
TS Trần Công Thắng, Viện trưởng Chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, nhận định: Một số khó khăn, vướng mắc còn tồn tại là thu nhập dân cư nông thôn còn thấp, chênh lệch giữa các nhóm thu nhập, vùng miền; cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, kinh doanh nông nghiệp chưa đáp ứng với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chưa có các trung tâm kết nối nông sản tại các vùng miền, thiếu hệ thống kho nông sản. Lãnh đạo các địa phương và chủ doanh nghiệp, HTX cũng khẳng định, bài học lớn nhất là phải tạo ra được giá trị gia tăng thật sự cho người dân, từ đó nâng cao thu nhập ổn định, tránh tình trạng “việc làm thời vụ” hay phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường bên ngoài. Nỗ lực tạo việc làm tại chỗ sẽ không thật sự hiệu quả nếu triển khai cảm tính, manh mún, thiếu liên kết và không có chiến lược lâu dài.
TS Trần Công Thắng khuyến nghị, Chương trình Nông thôn mới giai đoạn tiếp theo cần củng cố sức mạnh và tính gắn kết của cộng đồng nông thôn. Cụ thể, tại mỗi làng xã, cần xây dựng đội ngũ thủ lĩnh cộng đồng có đủ uy tín và năng lực; trao quyền và phát huy vai trò của cộng đồng và người dân trong việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống; cần gắn xây dựng nông thôn mới với phát triển nông nghiệp và công nghiệp, để bảo đảm việc làm và tăng thu nhập dân cư nông thôn.
"Thiên đường" bất ly hương (Kỳ 1)
(Còn nữa)