Lạ lùng người đa tài Nguyễn Đình Phúc

Nguyễn Đình Phúc là nghệ sĩ tài hoa. Ông không chỉ là một trong những người mở đường cho tân nhạc Việt Nam, thành viên sáng lập Hội Nhạc sĩ Việt Nam mà còn là một nhà thơ, họa sĩ để lại nhiều tác phẩm ấn tượng. Nhưng công chúng còn ít người biết có một Nguyễn Đình Phúc tiên phong trong nghiên cứu những làn điệu quan họ, và một Nguyễn Đình Phúc… vẽ.

Chân dung tự họa của nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc.
Chân dung tự họa của nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc.

Cá tính từ tác phẩm đầu tay

Nói đến nhạc sĩ Nguyễn Đình Phúc (20-8-1919 - 28-5-2001) là nói đến một nghệ sĩ đa tài với rất nhiều tác phẩm được giới nhạc, họa cùng công chúng đánh giá cao. Xuất thân từ gia đình bình dân (cha dạy tiểu học, mẹ bán cá ở chợ Đồng Xuân, Hà Nội) nhưng nhạc sĩ - họa sĩ Nguyễn Đình Phúc không giấu giếm hay mặc cảm về điều đó. Sinh thời, ông sống lãng tử, hồn nhiên và tự nhủ mình là du tử - “người đi lang thang” trên con đường nghệ thuật. Tôi nhớ lần trò chuyện với ông một ngày thu đã xa, đôi mắt tinh anh và nụ cười hóm hỉnh, hồn hậu.

Thời niên thiếu nhạc sĩ - họa sĩ Nguyễn Đình Phúc học Trường tiểu học Hàng Vôi, sau học Trường trung học tư thục Thăng Long, Hà Nội. Trong những năm 1938 đến đầu những năm 1940, với tình yêu và năng khiếu nghệ thuật, Nguyễn Đình Phúc tự học đàn piano và violoncelle, sau đó được sự hướng dẫn của nhạc sĩ người Nga Sibirev, thành viên của ban nhạc Milewith thường biểu diễn tại khách sạn Tavern Royal ở phố Tràng Tiền, Hà Nội. Khoảng thời gian này, ông chơi nhạc ở phòng trà Tuyết Sơn (Hà Nội) và tham gia đoàn xiếc đi biểu diễn lưu động ở tỉnh Bắc Ninh. Ngoài chơi đàn, Nguyễn Đình Phúc còn say mê sáng tác bài hát.

Ở tuổi 20, Nguyễn Đình Phúc theo học violon thầy Phạm Đăng Hinh, theo học piano với nhạc sĩ người Nga lưu vong Sibirev. Ông cũng áp dụng vốn tiếng Pháp để tự học về nhạc lý phương Tây. Ngay sau đó, năm 1941, ông bắt đầu để lại dấu ấn âm nhạc với sáng tác đầu tay “Lệ thu”. Điều thú vị là Nguyễn Đình Phúc tự viết phần đệm piano cho ca khúc đầu tay của mình, rồi tự chép nhạc, trình bày bìa và đưa xuất bản. “Ở thời điểm ấy, có lẽ đây là ca khúc đầu tiên có kèm phần đệm piano do nhạc sĩ Việt Nam tự sáng tác - một công việc mà ngay cả cho tới nay cũng vẫn ít gặp. Mặc dầu còn sơ giản, nhưng “Lệ thu” cùng phần đệm piano đã bộc lộ khát khao thử nghiệm việc ứng dụng những phương tiện, thủ pháp âm nhạc của phương Tây để tô đậm thêm nội dung cảm xúc của bài hát”, nhà nghiên cứu âm nhạc Nguyễn Thụy Loan nhận xét. Nguyễn Đình Phúc còn là người nghĩ ra phương pháp viết ca khúc cho người không biết ký - xướng âm. Tinh thần dám nghĩ dám làm của ông đã truyền được sang nhiều người, góp phần thúc đẩy phong trào tự sáng tác sôi nổi một thời trong chiến sĩ, công chúng vùng kháng chiến chống Pháp.

Trong hồi ký của mình, ông tự trào nhớ lại hoàn cảnh khi viết ca khúc đầu tay ấy: “Chẳng học ai, lại sáng tác phứa phựa đi, không như người khác, khiêm tốn một chút, chỉ viết giai điệu và lời ca, anh ta còn cả gan viết phần đệm dương cầm cho bài hát nữa. Chàng trai có biết chút kỹ thuật cơ bản gì về loại đàn này đâu? Chẳng qua anh ta đọc vài trang sách, nghiên cứu một số bản nhạc quốc tế viết cho dương cầm và nhất là xem người ta chơi loại đàn này… thế thôi”.

Người tiên phong nghiên cứu quan họ

Một năm sau đó, Nguyễn Đình Phúc lại thật sự gây bất ngờ khi công bố bài hát “Cô lái đò” phổ thơ Nguyễn Bính. Bài hát ấy đến nay đã trở thành một trong những ca khúc tiêu biểu của giai đoạn mở đầu nền tân nhạc Việt Nam. Rồi tiếp đó, nhiều ca khúc tiếp tục ra đời, in đậm dấu ấn của một tâm hồn tài tử, lãng mạn, yêu quê hương đất nước, yêu con người, luyến thương vẻ đẹp trần thế. Trong đó, không thể không nhắc tới ca khúc “Tiếng đàn bầu” phổ thơ Lữ Giang: “Tiếng đàn bầu của ta/Cung thanh là tiếng mẹ/Cung trầm là giọng cha/Ngân nga em vẫn hát tích tịch tình tang…”.

Trong âm nhạc, Nguyễn Đình Phúc không chỉ sáng tác ca khúc, ông còn viết ca cảnh nhạc kịch, nhạc múa, nhạc phim, giao hưởng... Đến nay, ông còn hàng chục tác phẩm chưa công bố. Riêng công trình nghiên cứu “Để góp phần vào vấn đề nghiên cứu quan họ”, Nguyễn Đình Phúc đã ghi dấu ấn tiên phong của mình. Công trình được viết trong 13 năm (từ năm 1949 - 1962). Song, theo ký ức gia đình kể lại, trước đó nhạc sĩ đã tiến hành điền dã về miền Kinh Bắc ngay từ những năm 1938 - 1940. “Trong lịch sử ngành nghiên cứu âm nhạc dân tộc nói chung, có thể xem đây là cuộc điền dã sớm nhất nghiên cứu quan họ. Hơn thế, đây cũng là công trình đầu tiên sử dụng hệ ký âm 5 dòng kẻ để hiển thị giai điệu dân ca. Có nghĩa trong lịch sử, ông là người đầu tiên phân tích âm điệu cổ truyền Việt Nam theo phương pháp tiếp cận mới kiểu Tây phương, điều mà trước đó có lẽ chưa ai thực hiện. Đây chính là giá trị lịch sử của công trình - như một dấu mốc quan trọng đối với ngành nghiên cứu âm nhạc dân tộc Việt Nam trong thời đại mới”, nhà nghiên cứu văn hóa Bùi Trọng Hiền nhận xét.

Càng khó càng vẽ

Nguyễn Đình Phúc còn thể hiện sự tài hoa của mình trong hội họa. Ngay từ hồi trai trẻ, Nguyễn Đình Phúc đã theo học Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, sau vì chống lại thầy giáo người Pháp xúc phạm học sinh An Nam mà bị đuổi khỏi trường. Năm 1943, với bức tranh “Chú bé thổi sáo”, Nguyễn Đình Phúc giành giải Nhất tại cuộc triển lãm tranh Đông Dương tổ chức ở Hà Nội. Tuy nhiên, khi về già, Nguyễn Đình Phúc mới dành nhiều thời gian cho hội họa.

Một trong những mảng để lại dấu ấn, được nhiều người nhớ tới đó là các chân dung văn nghệ sĩ, những người ông từng gặp và mến trọng về tài năng và nhân cách. Sinh thời, họa sĩ Nguyễn Đình Phúc lý giải, ông thích vẽ chân dung theo lối hư hư, thực thực và vẽ nhiều để thử sức mình. Bởi vẽ chân dung rất khó. Nhất là chỉ vẽ khuôn mặt của từng người và vẽ hàng trăm khuôn mặt khác nhau, sao cho khỏi đơn điệu, nhàm chán thì lại càng khó.

Ông cũng khẳng khái mà rằng, “tôi vẽ trước tiên để thỏa mãn lòng khát khao sáng tạo của mình, không phải vì mục đích kiếm sống. Sau đó, tôi thích vẽ chân dung văn nghệ sĩ là vì tôi yêu quý, trân trọng anh chị em”. Quan niệm của ông về vẽ chân dung cũng rất độc đáo: “Vẽ chân dung điều quan trọng hàng đầu là vẽ ai phải giống người đó, giống như thế nào, giống tới mức nào là do tài năng của người vẽ, miễn là đừng vẽ gà hóa cuốc, vẽ rồng hóa rắn. Tôi không vẽ chân dung theo một lối nhất định mà thường vẽ từng người theo suy ngẫm và xúc cảm của mình về người đó. Hầu như tôi chưa bao giờ mời ai ngồi làm mẫu để vẽ. Định vẽ ai tôi quan sát và phác họa hình ảnh của họ trong đầu. Thường là vào đêm khó ngủ. Khi nào chân dung hiện rõ nét tôi mới thể hiện lên “toan” theo trí nhớ của mình”...

Hình ảnh các nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, Văn Cao, Lê Yên…; nhà văn, nhà thơ Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Thi, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Khải, Tào Mạt, Tú Mỡ…; họa sĩ Mai Văn Hiến, Hoàng Lập Ngôn, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Trọng Kiệm, Nguyễn Sỹ Ngọc… và các nghệ sĩ Thái Thị Liên, Chu Thúy Quỳnh, Phạm Thị Thành… hiện lên với những điểm nhấn độc đáo. Bức chân dung danh họa Nguyễn Phan Chánh là bức vẽ cuối cùng trong cuộc đời ông, hoàn thành hai ngày trước khi ông mất.

Theo gia đình họa sĩ, riêng trong lĩnh vực hội họa, ông ra đi để lại một kho tranh đồ sộ. Không kể những bức tranh đã được họa sĩ tặng, hoặc đang được lưu giữ ở các bộ sưu tập, hiện gia đình còn lưu giữ gần 500 bức tranh. Khâm phục sức sáng tạo của ông, họa sĩ Lương Xuân Đoàn, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Mỹ thuật Việt Nam nhận xét: “Tự nhàn tâm, “Chàng Du tử” Nguyễn Đình Phúc yên nhiên đặt bút, thả nét gọi thần dung nhan phúc phận bạn bè văn nghệ, những người ông quý, ông yêu trong Cõi nhân gian bé xíu của đời sống Văn học Nghệ thuật đương thời qua những chân nét tinh tế, bình dị của phẩm cách và tài năng không thể khác”...