Ông trẻ Chất

Ngày thứ hai trong tuần.

Minh họa: NGUYỄN MINH
Minh họa: NGUYỄN MINH

Có tin là ông trẻ Chất đã về hưu. Lại họp họ.

Ngày xưa, lũ trẻ chúng tôi lâu lâu lại thấy ông trẻ Chất đạp xe từ huyện về. Ông đạp xe dọc đường đê. Còn ông đi lúc nào thì không rõ. Ông trẻ là ông trẻ, cần gì biết tuổi. Có lần tôi đang mải giương súng cao-su để bắn con chào mào hót trên ngọn khóm trúc, thấy xe ông lọc cọc đến gần, tôi vội đứng khoanh tay để chào ông. Ông đến mỗi lúc một gần. Cảm giác sắp chào được một người cao quý trong họ khiến tim tôi đập thình thịch. Gần thêm nữa, tôi líu cả lưỡi chào ông. Chắc thấy tiếng tôi ú ớ ông bèn bóp phanh, chống một chân xuống đất. Mặt có vẻ nghiêm trọng, ông hỏi tôi làm sao vậy? Thấy tôi nhắc lại câu chào, ông tỏ vẻ khó chịu, lại đưa chân tìm bàn đạp mà đạp tiếp. Tôi đâm hoảng, từ bận đó mỗi lần thấy ông đạp xe về là giả vờ quay vào bụi tre đi tiểu hay chổng mông đào bới con gì đó.

Thời thế, thế thời, cũng chẳng nhớ từ năm nào ông đã đi một chiếc xe volga cũ. Đám trẻ con ngày ấy giờ đứa thì có LX, SH, có đứa đi Camry, thấy xe ông chúng vẫn cứ dạt ra như ngày nào giả vờ đứng tè vào bụi tre. Có bận xe ông chết máy, đang cần ngưởi đẩy hộ mà chúng lủi sạch, tránh ông trẻ chẳng xấu mặt nào.

Ấy vậy mà, cái dạo bà cố mất chúng tôi vẫn xúm vào lo chu tất. Dẫu bà cố này cũng chỉ là mẹ kế, không sinh ra ông trẻ Chất nhưng một khi đã vào vai, vào vế thì già như mẹ tôi vẫn hớt hải, phờ phạc cả mái đầu đã bạc mà lo việc. Ông về chỉ việc đứng bên linh cữu đón khách vào viếng như đang làm việc ở cơ quan, gà lợn, xôi, gạo… bác Phán lại một tay lo chu đáo.

Cứ thế, cái tin ông trẻ Chất về hưu lan từ chi này sang chi khác, từ thân đến sơ, họ bàn đi, tán lại, bổ sung nhiều chi tiết thuyết phục nhưng vẫn là hoang tin. Ai đi qua vườn ổi nhà ông trẻ cũng biết cái xe Volga của ông vẫn nằm chềnh ềnh dương hai cái mắt đèn ngạo nghễ, lá ổi khô rụng đầy trên mình xe.

Ngày thứ tư trong tuần, một đứa cháu dâu tên Loan khá vụng. Nó cắt tiết con ngan chưa chết, con ngan chui qua hàng rào sang nhà ông trẻ. Con Loan đành chui rào đuổi theo. Con ngan lông trắng chạy lấy chết rúc thẳng vào gian chính ngã dúi dụi, mình nó nhem nhuốc xanh đỏ, tím vàng các loại bột nước rồi nó xô đổ cái giá vẽ, nằm ườn trên toan lụa mà thở khò khè.

Thế là, ít ra, ngày thứ năm trong tuần, cái tin ông trẻ râu tóc xồm xoàm đang đánh trần vẽ tranh cũng làm yên lòng đám con cháu trung tuổi. Con ngan cuối cùng đã lên thớt, chỉ còn lại trường phái tranh siêu thực làm lũ trẻ có học tò mò, các cụ cao niên thì đâm lo. Nghe cái Loan kể ông trẻ Chất vẽ bức tranh vằn vện kỳ quái như người đầu óc tâm thần.

Ngày thứ sáu trong tuần, họ lại họp khẩn cấp, bác Phán dõng dạc tuyên bố:

- Giờ họ ta đã có cụ bát tuần nhưng xét về vai vế còn mỗi ông trẻ Chất là lớn nhất.

Ngừng lại đôi chút như muốn thêm sự trang trọng:

- Suốt một đời ông vò võ, không vợ, không con làm cán bộ trên huyện, dẫu ông không gần gũi để ta hỏi tuổi, bà cố lúc còn sống già yếu cứ nhầm lẫn lúc bảo sinh ông vào năm Sửu, lúc năm Dần, thì ông vẫn thuộc hàng cao quý. Cái uy của ông trẻ lớn lắm, ông cứ ung dung tự tại đi mây về gió thanh tao. Giờ ông bị mắc chứng ấy, cả họ ta phải có trách nhiệm đền ơn ông, sao lại sinh ra bàn tán chế giễu ông?

Lại ngừng giây lát, bàn tay bác lật từng trang gia phả:

- Ông trẻ có lá tử vi mệnh “thân cư quan”, nghĩa là suốt đời cúc cung tận tụy, giờ không biết đường quan mệnh gặp trắc trở hay có kẻ xấu hãm hại đây?

Thế là ngay trong hôm ấy, người ta rước về một ông thầy có tiếng ở vùng. Lễ đã chuẩn bị xong, hiềm nỗi thầy bảo lấy được chiếc áo của ông còn chưa giặt đem về để thầy xem mới biết tình thế như thế nào. Nhưng, ông trẻ là bậc quân tử, thầy cũng không thể hành xử khuất tất kẻo mạo phạm. Họ mạc lại được một phen nháo nhác, thì thào, đi đi về về. Ông trẻ Chất vẫn cứ thản nhiên bên giá vẽ. Tranh của ông phơi khắp sân, có cái phấp phới trên dây phơi.

Vẫn chưa tiến triển gì thì bỗng một hôm, sớm tinh mơ, ông trẻ sang nhà bác Phúc. Ngồi xuống mép chiếu hoa, đỡ lấy chén trà từ tay trưởng họ, ông trẻ Chất khẽ đưa tay xoa lên mái đầu vừa cắt gọn ghẽ đã điểm những sợi bạc. Ông bảo hôm nay là chủ nhật, muốn tập hợp đông đủ họ hàng ăn một bữa cơm với ông. Thường ngày, có ai dám lấy thứ gì trong vườn của ông, nhưng hôm nay heo, gà lần lượt được ngả ra xào nấu bày lên mâm.

- Hôm nay, có bữa cơm mời họ mạc, tôi muốn tính lập gia thất, nói đơn giản là lấy vợ.

Ơ, đúng là ông trẻ chưa lấy vợ bao giờ thật. Cả dòng họ này quên, cả làng quên và cả ông trẻ Chất cũng quên. Ông trẻ lại hắng giọng:

- Là tôi nói để các vị được biết, chứ không dám phiền các vị nhiều, thân tôi tôi phải tự lo trước đã. Nay mai cô ấy về làm dâu, các bác cứ coi như con cháu trong nhà mà bảo ban em nó. Dâu con, rể khách.

Đến lượt các cụ râu tóc liếc mắt nhìn nhau. Đến già, ông trẻ vẫn còn chơi khó con cháu. Giờ thì còn đâu bụi tre mà quay mông rúc vào, còn đâu hang dế, hang chuột mà giả vờ cắm cúi đào, lỡ ông trẻ mà rước con bé trẻ ranh tóc vàng, tóc đỏ nào về thì đến lỗ nẻ cũng không tìm ra mà chui ấy chứ. Nghe cái kiểu rào đón của ông trẻ, ai cũng ngờ ngợ thế.

Đám cưới diễn ra suôn sẻ, cô dâu mới bước xuống xe hoa, đẹp mặn mà dù cũng đã trên bốn mươi. Đóa hoa nở muộn trong cánh rừng mới bừng tỉnh sau sáu mươi mùa đông, không chói chang nhưng cũng đủ làm làng trên, xóm dưới râm ran thổn thức trước cái tài chọn vợ của ông trẻ. Rồi ông trẻ nhuộm tóc đen nháy, mặc áo phông, quần bò, gây dựng được cái giải cầu lông hỗn hợp các lứa tuổi U trong làng. Năm sau ông trẻ bế “ông cậu”, “ông chú” kháu khỉnh, toét miệng cười làm lắm bậc con cháu tóc bạc phơ thấy họ mình có người kỳ diệu. Rồi… rồi…

Một hôm, cũng sáng sớm, ông trẻ lại sang nhà bác Phán. Lâu lắm, giờ lại thấy ông trẻ bỏ cho tóc bạc trắng, chiếc quần vải cũ đã nhàu nom còn tiều tụy hơn trước. Bác Phán lại vội vã đi pha ấm trà nóng:

- Vậy là ông trẻ đã hoàn thành nhiệm vụ với nhà nước rồi - Thấy không biết bắt đầu thế nào bác Phán đành nói vu vơ thế.

- Là tôi đã xong cả hai vai rồi chứ ông.

Thấy bác Phán sững sờ, ông trẻ Chất lại tiếp thêm:

- Giờ tôi chỉ còn lại một mình, bữa cơm nấu cả ngày nên chỉ còn chuyên tâm vào giá vẽ thôi.

- Ơ, thế bà trẻ và...

- Đi cả rồi. Có một bến đỗ mới, một anh cũng muộn vợ mà khá giả, chân thành. Lúc đó cô ấy cần một người cha cho con mình thì tôi giúp. Còn giờ bảo làm một người chồng thì tôi không thể. Ông nhớ mấy năm tôi đi bộ đội chứ…

Bác Phán nhìn ra cánh đồng làng xa tắp, môi mấp máy mà chẳng nói được gì. Ờ, giờ bác mới nhớ đã có một thời ông trẻ đi lính, ngày đó đã hết chiến tranh nhưng đâu đó vẫn có bao nhiêu anh bộ đội trở về mang theo di chứng của chất độc mà giặc ném xuống, ngấm vào đất đai, cây cỏ, tiệt giống nòi. Bác trầm ngâm rồi cất tiếng:

- Ông làm thế cũng phải, cháu đâu ngờ ông còn gánh vác cả cái vai thứ hai ấy trong cuộc đời.

- Ông nói thế cũng không hẳn - giọng ông trẻ Chất trầm xuống - Tôi hai vai mà đâu có thành, cũng chỉ là diễn với đời thôi, cô ấy còn long đong thêm một bến nữa, vai nào cô ấy cũng phải hứng chịu.

- Thôi giờ ông trẻ thảnh thơi mà an hưởng tuổi già thôi chứ, con cháu, họ mạc trông cậy cả vào ông trẻ như cái cây lớn trong rừng.

- Ông trưởng họ nói thế tôi không dám nhận. Họ mạc từ lâu đã nền nếp yên ấm, tôi cả đời có đóng góp được gì, nay lại sắp rời làng đi.

- Ông trẻ đi đâu, nhà cửa ruộng vườn để cho ai? Ông đi xa quê mãi rồi giờ còn đi đến bao giờ?

- Nào tôi đã đi tới đâu hả ông? Cả đời đi đi về về mãi một con đường, nay tôi muốn đi và vẽ. Phải đi chứ sắp hết đời rồi, nhà cửa ruộng vườn trong tay tôi cũng như phù vân, gửi ông bà bên này trông coi hộ may còn được quả ngọt cho con cháu.

Ông trẻ Chất đi rồi, giờ lũ trẻ ngày mưa có thêm cái sân xi-măng rộng rãi để chơi đùa, mùa nào thức ấy, hoa trái trong vườn níu giữ tiếng cười trẻ thơ và tiếng chim lảnh lót. Những vết bột mầu vẫn in dấu trên khung cửa, vết xe ông về lúc cái sân đổ bê-tông còn chưa khô vẫn in hằn trên sân, trên cái dây phơi dây leo đã phủ kín.

Mùa mưa sụt sùi, nước mênh mang, làng quê trong mưa như một miền cổ tích, ông trẻ giờ đã thành câu chuyện xưa cũ như cơn mưa.