Nhà báo Nguyễn Hồng Vinh lại ra sách mới, tập thơ: “Vang âm tiếng sóng” (NXB Văn học) vào những ngày cuối năm 2022. Như một người lao động luôn có sẵn công cụ trong mình - chữ nghĩa - ông dường như chưa bao giờ ngơi nghỉ, năng lượng luôn tràn đầy, luôn nhiệt tình để đi - ngẫm ngợi và viết...
Theo chính Nguyễn Hồng Vinh tự bạch, “Vang âm tiếng sóng” là tập thơ thứ 11 của ông, và cũng là cuốn thơ thứ 2 chỉ riêng trong năm 2022 nhiều biến chuyển. Có lợi thế là một nhà báo tên tuổi, từng là một nhà quản lý báo chí ở những cấp bậc cao nhất, Nguyễn Hồng Vinh luôn giữ được con mắt nhìn tỉnh táo, thực tế và lạc quan trước sự vật, đời sống. Con mắt ấy cũng được chuyển hóa vào thơ, để thơ ông luôn có nhịp thở thời cuộc, luôn đau đáu với muôn nẻo đường đời: “Anh viết theo ngọn lửa, Mách bảo của trái tim, Cả khi ngồi câu cá, Nghĩ về điều buồn phiền, Đang làm Dân khốn đốn”. Ông dường như không chủ ý làm thơ, chỉ là đi giữa những ngày thường ồn ã, “bệnh” nghề nghiệp của một nhà báo khiến ông chăm chú quan sát, lắng nghe mọi thay đổi, nhận biết được những cục cựa của cuộc sống chung quanh mình và ông dùng sự nồng nhiệt của tâm hồn, trái tim ghi lại những trạng thái cảm xúc đó. Nói tiếng lòng mình, nên thơ Nguyễn Hồng Vinh thường chân chất, tự nhiên, bởi đó là những lời chân thành được lẩy nhịp từ chính cuộc sống. Đó cũng có thể là những suy tư được bật ra trong mỗi khoảnh khắc bất kỳ: “Bạn hớt hải hỏi: Anh vừa gọi máy tôi, Hay do lỡ chạm tay. Tôi tỉnh khô: đúng là chạm tay, Vì chẳng còn chi để nói, Khi những tin đồn thổi, Cứ quay như đèn cù. Tôi mong cấp trên, Chạm tay máy anh, Nếu là việc vô tình, Cũng là niềm an ủi”. Cảm giác hẫng hụt này, cái ước muốn đắng ngắt này hình như đã từng diễn ra ở không ít người. Thơ Nguyễn Hồng Vinh, thảng hoặc có những phát hiện thú vị như thế...
Vì không dụng ý làm thơ, để thơ tự đến như một thói quen thường ngày, nhiều lúc thơ đã đến với nhà báo Nguyễn Hồng Vinh thật điệu đà, xinh xẻo: “Ngỡ em nhả tơ từ kiếp trước, Để anh ám ảnh một kiếp tằm, Kìa sông chảy xuôi, cá lội ngược, Đôi mình như mắc lưới tình duyên”; hay “Hoa sưa trắng nỗi niềm xưa, Sáng trưa chiều tối đón đưa em về, Hoa sưa bừng nở còn nghe, Tiếng chim líu ríu đầu hè nhắc ai”... Và nữa “Tưởng gói kỹ lá xanh, Giữ hương tình vẫn thắm, Đông tàn rồi xuân sang, Cứ vời xa thăm thẳm”..., trong “Vang âm tiếng sóng” đã gặp không ít những tự tình trong trẻo, dễ đồng cảm như thế. Hồng Vinh vẫn đi nhiều, đi để sống và viết - cái kỹ năng được tôi luyện cả đời của một nhà báo nhiều thành công - đắm mình vào thực tế - thúc đẩy nhà thơ Nguyễn Hồng Vinh liên tục cho ra những tập thơ dày dặn. Khi đã có một sự nghiệp đủ đầy, thơ với Nguyễn Hồng Vinh có lẽ để vui, để ông được thủ thỉ với chính ông sau những tháng ngày dành cho thế sự...
Những đêm mùa đông chờ Xuân, nơi căn phòng nhỏ ấm, lũ sinh viên nghèo lại quây quần quanh thầy Nguyễn Hùng Vĩ, giảng viên Khoa Ngữ văn, Trường đại học Tổng hợp Hà Nội (cũ), một ông giáo hồn hậu, quê nghèo lam lũ xứ Nghệ, luôn trọng nghĩa trọng tình.
Dễ thấy lâu nay, người viết khi cho in tuyển tập đồng nghĩa với việc gom lại, khép lại quá trình sáng tác. Nhưng cũng có người sau đó vẫn tiếp tục xuất bản tác phẩm, không phải “út, ít” bòn mót, mà là những “đứa con” bụ bẫm, khỏe mạnh, ai cũng tấm tắc, trầm trồ.
Nữ nhà thơ Phùng Thị Hương Ly sinh ra và lớn lên ở Bắc Kạn, người Tày, học ngành viết văn, sau ra trường làm báo, hiện sống và viết tại quê hương. Một phác thảo lai lịch như thế cho thấy hai điểm quan trọng: người thơ ấy có một vốn liếng hết sức tự nhiên, sống động về nơi chốn mình, dân tộc mình và được đào tạo bài bản trong môi trường viết.
Nhà thơ Huỳnh Thúy Kiều sinh ra và lớn lên ở chính giữa lòng châu thổ Cửu Long. Hiện chị cũng sống và viết tại đây. Như thế, tức là cả đời “ăn chịu” quê hương, xứ sở. Như nắng như gió, như đất như cây, như điệu ca vọng cổ, thơ Huỳnh Thúy Kiều cứ thế cất lên tự nhiên, đậm hương, nồng vị và lan tỏa.
Những năm gần đây, cái tên Đào Quốc Minh trở nên khá quen thuộc trong văn giới và bạn đọc. Anh viết và xuất bản đã có đến năm sáu tập thơ; tập gần đây nhất là “Phục sinh” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2024) với dung lượng khá lớn, 180 bài.
Người ta vẫn thường hay nói nhà thơ không có tuổi. Đó là một cách nói vui, lãng mạn, nghiêng về phía an ủi nhau. Thật ra, ai cũng vậy thôi, nhà thơ cũng như tất thảy chúng sinh, không tránh khỏi quy luật của tự nhiên. Tất thảy chúng ta già dần dần, đi theo quy luật của muôn đời: sinh, lão, bệnh, tử… không thể khác.
Trần Kim Hoa làm thơ dễ đã 30 năm có lẻ. Và đã ra được 3 tập thơ riêng đầy đặn, trong đó tập Bên trời gần đây nhất đã được trao Giải thưởng thường niên của Hội Nhà văn Việt nam (2020). Trong vòng ngần ấy thời gian, với 3 tập thơ, cho thấy tác giả không phải là người ham chạy theo số lượng.
Trong bài thơ mang tên “Nàng, hoa của cát” (đồng thời cũng được lấy làm tên cho tập thơ, NXB Hội nhà văn, 2019), nhà thơ Kiều Maily đã có những câu thơ như thể tự họa về mình: Nàng, hoa của cát/ yếu đuối giữa men tình/ kiêu hãnh với cô đơn/ nỗi mơ cuốn nàng về miền hạnh phúc/ Nàng, hương của đất/ chắt chiu giọt phù sa nuôi nấng đời cây/ hẹn mùa gieo hạt. Bài thơ có ba chủ thể: nàng, hoa và cát trong mối quan hệ gắn bó, ràng rịt với nhau.
Một người làm thơ trẻ thông thường hay lựa chọn một cách thế sống cùng, sống giữa, đồng hành với thế hệ mình và với đời sống hôm nay trong tất cả sự bề bộn, phức tạp và sống động của nó.
Tròn 20 năm, nữ thi sĩ Phạm Thị Ngọc Liên mới trở lại thi đàn bằng tập thơ dày dặn mang tên “Trong tôi có nhiều tôi” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn). 99 bài thơ kết thành một “con đường thơ” với biển chỉ đường là “Tình yêu”. Phải, tất cả đều là thơ Tình, của một người đàn bà hồn nhiên, đa đoan, sẵn sàng “nhắm mắt đi trên cầu thăng bằng/ nồng nàn/ liều lĩnh” để tìm cho được chân dung của Tình yêu, hay là chân dung thân phận con người.
Thơ gắn với buồn từ khi nào, có lẽ từ lúc thơ bắt đầu. Buồn là một phẩm chất của thơ, là một phẩm chất của đời sống con người vốn mong manh hữu hạn, nhiều bất toại hơn như ý. Người cầm bút tìm đến thơ như một cách để cất giấu, lại như một cách để phơi bày nỗi buồn trên mặt giấy. Ðể tìm kiếm một sự đồng cảm, tìm kiếm tri âm. Thy Nguyên là kiểu người làm thơ như vậy, “chơi” với buồn, và “phơi” nỗi buồn, không đắn đo giấu giếm.
Nguyễn Hồng là một cái tên dường như đã quen trong đời sống văn học hiện thời. Chị khá chắc tay trong nhiều thể loại: truyện ngắn, tản văn, thơ. Riêng với thơ, chị đã cho in tập “Ví dụ anh” (2016), và đã đăng rải rác khá nhiều bài thơ lẻ trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Một dáng vóc thơ dần được định hình...
Vào quãng năm đầu thập kỷ chín mươi của thế kỷ trước, khi đang làm nghiên cứu sinh ở Đại học Sư phạm Hà Nội, tôi thấy trong văn giới xôn xao bàn tán về một tài thơ rất lạ mới có 47 tuổi vừa mới khuất. Đó là nhà thơ Phùng Khắc Bắc, tác giả tập thơ duy nhất mang tên “Một chấm xanh” do NXB Quân đội nhân dân phát hành cuối năm 1991.
Bạn đọc yêu thơ ngay từ thập niên 80 của thế kỷ XX đã biết đến một cây bút viết thơ cho thiếu nhi mang tên Nguyễn Hoàng Sơn. Lúc ấy, thơ viết cho thiếu nhi nổi bật nhất vẫn là một số cây bút quen thuộc, thế hệ đàn anh như Võ Quảng, Phạm Hổ, Định Hải... Cái tên Nguyễn Hoàng Sơn cùng vài cây bút thế hệ anh như Phạm Đình Ân, Trương Hữu Lợi, Mai Văn Hai... mới bắt đầu thấp thoáng.
Trong số những nhà thơ trẻ (xuất hiện ở độ tuổi dưới 35) hiện nay, có một số cây bút rất quan tâm đến việc đổi mới thơ theo cách bắt đầu bằng việc dụng chữ, làm chữ, biến/đổi chữ. Nguyễn Thị Thúy Hạnh là một cây bút như vậy, ngay từ đầu, nhất quán và công khai tư duy về chữ, “di chữ”, “sống lời”, đã xác lập một quan niệm về thơ lấy chữ/ngôn ngữ làm trung tâm.
Trong truyền thống, nhất là với thơ trung đại, người đọc thơ thường hay chú ý đến những câu chữ được coi là tuyệt bút trong bài: những “nhãn tự”, “thần cú”... Cách nhìn này, khi bước sang văn học hiện đại vẫn được chú ý, nhưng không còn là duy nhất, cuối cùng.
Quan sát những người “dính” vào chốn thơ, thấy họ làm thơ với rất nhiều động cơ khác nhau. Những động cơ ấy có khi rõ rệt, có khi mơ hồ; có khi thiết thực, có khi lại vu vơ; có thể người thơ ý thức rõ công việc mình làm, có khi cứ viết như một thôi thúc bên trong không cưỡng được...
Trong khoảng thời gian ngắn, nhà thơ Trần Lê Khánh công bố đều đặn mỗi năm một tập thơ. Tại NXB Hội Nhà văn: “Lục bát múa” (2016), “Dòng sông không vội” (2017), “Ngày như chiếc lá” (2018), “Giọt nắng tràn ly” (2019), “Xứ - rung một ngọn mây” (2020). Tại NXB White Pine Press (Hoa Kỳ): “The beginning of water”. Một gia tài thi ca đáng kể, ít ra là về mặt số/ khối lượng.