Ở Việt Nam có trái tim của người được giải Xéc-van-tét

Giải thưởng văn học quốc tế Xéc-van-tét có từ năm 1975, hiện là giải thưởng hằng năm lớn nhất cho người sáng tác văn học bằng ngôn ngữ Tây Ban Nha với mức thưởng 125 nghìn ơ-rô (tương đương 3,5 tỷ đồng). Danh sách các ứng viên phải do Viện Hàn lâm Ngôn ngữ của tất cả các quốc gia sử dụng ngôn ngữ Tây Ban Nha chọn lọc để Bộ Văn hóa Vương quốc Tây Ban Nha quyết định.

Ở tuổi 97, nhà thơ lão thành Chi-lê, Ni-ca-no Pa-ra được hưởng vinh dự lớn nhất của người sáng tác văn học bằng ngôn ngữ Tây Ban Nha, giải thưởng văn học quốc tế Xéc-van-tét, về toàn bộ sự nghiệp văn chương. Bộ trưởng Bộ Văn hóa Vương quốc Tây Ban Nha An-hê-lét Gôn-xa-lết Xin-đê đã công bố quyết định này hôm 1-12-2011. Theo đó, Ni-ca-no Pa-ra là dòng tên nối tiếp A-na Ma-ri-a Ma-tu-tê (nữ văn sĩ Tây Ban Nha) -  người phụ nữ thứ ba trong toàn bộ danh sách những người được giải Xéc-van-tét.  

 Ni-ca-no Pa-ra ra đời ngày 5-9-1914 tại Xanh Pha-bi-an thuộc tỉnh Nu-blê (Chi-lê). Lớn lên trong một gia đình nghệ sĩ, có em gái ruột là nữ nhạc sĩ kiêm họa sĩ lừng danh Vi-ô-lét-ta Pa-ra, nhưng ông lại đi sâu vào khoa học tự nhiên. Sau khi tốt nghiệp Ðại học Sư phạm ngành Toán Lý, ông tiếp tục sang Anh học lên, tại trường đại học danh tiếng Ốc-pho, và sang Mỹ giảng dạy tại Ðại học Brao. Từ năm 1946, ông trở về cố hương định cư, là giáo sư Vật lý lý thuyết của Ðại học Tổng hợp Quốc gia Chi-lê. Chính vì thế, làm thơ được coi là nghề thứ hai của ông.

Ông thầy Toán Lý Ni-ca-no Pa-ra trình làng tập thơ đầu tay Những bài ca không tên từ năm 1937, được đồng nghiệp và công chúng chú ý. Ðến nay, ông đã xuất bản hơn hai chục tập thơ, trong đó có Thơ và phi thơ (1954), Những bài thơ xa-lông (1962), Ca khúc Nga (1967), Những món đồ khảo cổ (1972), Thơ chính luận (1983), Thách đấu với sự tẻ nhạt (1993), Những trang giấy trắng (2001)... và được xếp cùng hàng ngũ với những nhà thơ nổi tiếng nhất Chi-lê như Pa-blô Nê-ru-đa và Gôn-xa-lô Rô-hát. Không hiếm lần Ni-ca-no Pa-ra đã gọi những bài thơ của mình là "phi thơ" vì chúng không cầu kỳ chữ nghĩa - thủ pháp vốn là đặc trưng của thơ Mỹ la-tinh , mà thiên về lối diễn đạt giản dị, sử dụng thứ ngôn ngữ trò chuyện hằng ngày gần gũi và hình thức thơ cổ điển để diễn đạt lối tư duy lành mạnh. Dẫu có "nhún mình" như thế, Ni-ca-no Pa-ra vẫn được đánh giá cao, được mời đọc thơ ở nhiều nước: Mỹ, Anh, Pháp, Liên Xô, Cu-ba, Mê-hi-cô và giành được nhiều giải thưởng cao quý trong nước (giải thưởng Quốc gia Chi-lê, hai lần: 1969 và 1981, huy chương Ga-bri-ê-la Mi-xtơ-ran...) và nhiều lần được vinh danh quốc tế (giải thưởng Hoan Run-phô 1991 - xét trên cả châu Mỹ la-tinh và vùng Ca-ri-bê, giải thưởng Hoàng hậu Xô-phi-a 2001 - xét trên cả châu Mỹ và bán đảo I-bê-ri-a)... Sáng tạo văn học đã đưa Ni-ca-no Pa-ra lên hàng thần tượng của văn học Mỹ la-tinh, gây ảnh hưởng lớn đến nền thơ chung ở khu vực này.

Và thật xúc động - trong những sáng tác của Ni-ca-no Pa-ra, ta thấy một tấm tình đáng quý đối với công cuộc chiến đấu vì độc lập tự do của quân dân Việt Nam, nơi nhà thơ đã gửi trọn trái tim mình. Ðiều độc đáo là Ni-ca-no Pa-ra thích dùng những biểu tượng nội tạng (dạ dày, trái tim, tuyến tiết niệu...) để biểu hiện nội tâm (như ta thường nói "rút gan rút ruột") khẳng định rõ: Việt Nam chính là cấu thành cơ thể của nhà thơ, nên tình cảm - trách nhiệm đối với Việt Nam có ý nghĩa máu thịt!

* Lễ trao giải Xéc-van-tét được tổ chức vào đúng ngày giỗ của tác giả tiểu thuyết Ðông Ki-sốt bất hủ (23 tháng Tư). Giải thưởng không tính theo tác phẩm cụ thể, mà trao cho toàn bộ sự nghiệp của tác giả hiện sống, nên được ví như giải Nô-ben trong thế giới ngôn ngữ Tây Ban Nha.

* Trong số những người từng được nhận giải Xéc-van-tét có nhiều nhà văn đã nhận giải Nô-ben như: Ốc-ta-vi-ô Pát (Mê-hi-cô), Ma-ri-ô Vác-hát Li-ô-xa (Pê-ru), Ca-mi-lô Hô-xê Xê-la (Tây Ban Nha)... hoặc có danh tiếng lẫy lừng thế giới như: Hoóc-hê Lu-ít Boóc-hết (Ác-hen-ti-na), A-lê-hô Các-pênh-chi-ê (Cu-ba), Au-gu-xtô Goa Ba-xtốc (Pa-ra-guay)...

Có thể bạn quan tâm