Cú rẽ ngoạn mục với múa đương đại
- Anh có nhiều năm làm việc tại các nhà hát và công ty múa ở châu Âu, trong đó có Italy, nơi sinh ra ballet. Tác động lớn nhất từ những năm tháng ấy tới nhận thức của anh về múa có thể là gì?
- Năm 2006, tôi có được học bổng một năm tu nghiệp tại Học viện Múa Rotterdam (Rotterdam Dance Academy, thuộc Trường đại học nghệ thuật Codarts danh tiếng của Hà Lan-PV). Tôi nhanh chóng nhận ra, cùng là múa ballet nhưng tôi như "người đá lạc đội hình" với các đồng nghiệp, dẫu rằng, tôi đã là vũ công chính bậc hai (solist 2) tại Nhà hát Giao hưởng-Nhạc Vũ Kịch Thành phố Hồ Chí Minh. Tôi muốn tìm câu trả lời cho sự lạc loài này, cho câu hỏi tại sao tôi múa mà cứ bị mỏi, cứ thiếu vắng cảm giác thoải mái, tự nhiên, nhẹ nhõm.
Tôi nghiệm thấy, khi ở trong nước, tôi chỉ biết làm sao cho thật tốt theo chỉ dạy của thầy, cô, các biên đạo. Nhưng, động tác múa đến từ chuyển động của cơ thể và làm thế nào để hiểu biết, có ý thức đầy đủ về chuyển động ấy, để rồi kiểm soát được nó? Có lẽ phải quay ngược lại việc hiểu từng thớ cơ, đốt xương, khớp nối của cơ thể mình và nguyên lý vận hành chúng; điều này, thế hệ chúng tôi chưa có cơ may được học ở trong nước.
Ở Hà Lan, bộ môn giải phẫu cơ thể học trong y khoa là môn học quan trọng ở trường múa, bên cạnh môn về dinh dưỡng học. Chúng hoàn toàn mới, khó hiểu với tôi trong khi tiếng Anh của tôi chỉ ở mức "bập bẹ". À, còn một chuyện mà đến giờ, có lẽ, các bạn học của tôi vẫn nhớ cái mặt nghệt của tôi trong các cuộc gặp gỡ, khi họ nói chuyện với nhau rất nhiều về mỹ thuật, những ảnh hưởng thẩm mỹ từ tác phẩm của một số danh họa châu Âu…, còn tôi chẳng biết gì nhiều.
Vậy là tôi lao vào học tiếng Anh, đọc hiểu về giải phẫu cơ thể, đi bảo tàng nghệ thuật, đặc biệt là luyện tập, có lúc nôn nóng đốt cháy giai đoạn nên bị chấn thương nặng nề.
![]() |
| Vũ Ngọc Khải (hàng trên) trong tác phẩm Auftaucher của Nhà hát Braunschweig, CHLB Đức. Ảnh: Volker Beihorn |
- Anh cũng "nhảy việc" nhiều lần. Anh tìm kiếm điều gì nữa từ các "cú nhảy" đó?
- Học và làm việc ở châu Âu, tôi thấm thía rằng, tuy tôi có nhiều ưu điểm trong biểu diễn ballet nhưng cơ thể của tôi không cho phép tôi gắn bó với nó. Do cấu tạo tự nhiên của cơ thể người châu Á; lưng dài, chân ngắn, đùi to… nên dù mình có nỗ lực rèn luyện bao nhiêu cũng khó mà đạt tới vẻ đẹp hoàn mỹ cổ điển của một nam vũ công ballet mỗi khi bước ra sân khấu. Tôi quyết định chọn múa đương đại.
Nhưng để học được tư duy sáng tạo của họ, tôi không thể đốt cháy giai đoạn được nữa mà phải đi từng bước, từ khổ luyện với ballet, dần dịch chuyển qua múa hiện đại với nhiều phong cách khác nhau, lại quay về ballet tân cổ điển rồi mới đến múa đương đại. Vì thế, cứ đến mùa tuyển lao động trong ngành múa, tôi lại gửi hồ sơ tới những địa chỉ mà tôi tin rằng, tôi có thể học thêm điều mới.
![]() |
| Cảnh trong vở "Dó"- những chiếc nơm tựa bông hoa... Ảnh: Phái đoàn EU tại Việt Nam |
- Vì sao anh quyết định về nước hẳn kể từ năm 2019? Anh không muốn tiếp tục cạnh tranh trong nghề ở châu Âu?
- Đã đạt được cấp độ 2 theo tiêu chuẩn diễn viên múa châu Âu nên tôi không sợ thất nghiệp. Đã làm việc với hơn 20 biên đạo múa châu Âu nên tôi cũng được biết đến nhiều hơn trong vai trò biên đạo và có thể mở công ty riêng. Nhưng chưa bao giờ tôi có nhu cầu ở lại đó lâu dài. Tôi vẫn là công dân Việt Nam, quốc tịch Việt Nam và mang hộ chiếu Việt Nam.
Từ năm 2009, tôi đã hợp tác làm việc với công ty múa Arabesque tại Thành phố Hồ Chí Minh trong vai trò biên đạo. Tôi hiểu rằng, những tác phẩm múa có hương vị văn hóa Việt Nam sẽ giúp tiếp cận khán giả trong nước tốt hơn, trong khi về nguyên tắc, chất liệu của múa đương đại có thể là bất cứ thứ gì, là tất cả trong vũ trụ này, đem tới trải nghiệm về sự chuyển động tự nhiên bất tận của sự sống hiện diện quanh chúng ta, bên trong chúng ta. Người sáng tạo phải biết cách cân bằng tất cả các yếu tố đó trong tác phẩm của mình.
- Trong vở ballet đương đại "Dó", hình ảnh chiếc nơm bắt cá của người nông dân Bắc Bộ được biến hóa ở nhiều dạng thức khác nhau: có khi tựa bông hoa, lúc lại là tấm váy, lúc như chiếc mũ, khuyên tai hay mặt nạ… Anh có thể chia sẻ thêm về quá trình hai biên đạo đưa hình ảnh chiếc nơm thành như một biểu tượng của vở múa này?
- "Dó" là một "đặt hàng" của Phái đoàn Liên minh châu Âu (EU) tại Việt Nam, một vở ballet đương đại trên nền nhạc tổ khúc "Bốn mùa" của nhà soạn nhạc cổ điển người Italy A.Vivaldi nhưng có sự giao thoa với văn hóa Việt Nam. Hai biên đạo chúng tôi đã bàn thảo xuyên ngày đêm để có thể tìm ra các ý và tứ, nương theo đó để phát triển vũ đạo và tạo hình sân khấu. Vì chỉ có chín tuần để chuẩn bị, chúng tôi buộc phải chia việc để tiết kiệm thời gian; tôi được phân công đảm nhận khoảng 65% khối lượng việc dàn dựng vở; trong khi anh Lương chịu trách nhiệm giải quyết rất nhiều khâu công việc khác bên cạnh việc dàn dựng và còn có một công ty khác đảm nhận toàn bộ quá trình sản xuất, vận hành.
Thời gian dài làm việc ở nước ngoài giúp tôi hình thành nếp suy nghĩ về việc làm thế nào có thể lạ hóa một vật đơn giản và đưa nó lên sân khấu một cách độc đáo. "Bốn mùa" là tháng ngày, là đời sống thường nhật, "Dó" chuyển tải điều đó qua hình ảnh người cha lầm lụi mang vác gánh gia đình trên vai, hình ảnh người mẹ lặng lẽ mà đầy quyền uy trong gia đình, qua tình yêu thuần khiết của tuổi trẻ đẫm dư vị văn hóa Á Đông tinh tế, qua những niềm vui dân dã bé mọn mà dưỡng nuôi tâm hồn người… Ở từng phân cảnh, chiếc nơm đã được biến hóa đa dạng và hòa quyện.
Trong không gian tác phẩm ấy, khán giả có thể cảm nhận rõ nét hơn về văn hóa và tinh thần Việt từ toàn bộ trình hiện của tác phẩm, chứ không chỉ từ gợi nhắc của một đồ vật cụ thể.
- Tôi đã thật sự rung động khi nhìn tấm chiếu cói chữ hỉ trong chương múa gợi về tình yêu của đôi chim phượng…
- Cảm ơn chia sẻ của chị. Nhân đây, tôi muốn kể một câu chuyện mà nó khiến tôi muốn bày tỏ nhiều hơn về văn hóa Việt Nam với thế giới này thông qua múa đương đại.
Năm 2023, tôi được mời như một đại diện của Việt Nam tham gia Liên hoan Nghệ thuật biểu diễn Seoul (Seoul Performing Arts Festival-SPAF). Bà Eun-Me Ahn, biên đạo múa danh tiếng nhất Hàn Quốc hiện nay là người trực tiếp phỏng vấn tuyển chọn biên đạo các nước khác để tham gia lĩnh vực múa đương đại. Đề bài đặt ra là câu chuyện về người nhập cư vào Hàn Quốc. Biên đạo múa chỉ được chọn diễn viên không chuyên và là người nhập cư cùng quốc tịch. Tôi chọn được năm bạn gái trẻ có xuất thân hoàn toàn khác nhau, sau nghiên cứu từ gần 100 hồ sơ vòng loại. Tôi đã đưa ra những câu hỏi chung nhất cho các em, như khi xa quê, vật dụng bất ly thân của các em là gì; nhớ gì nhất ở quê hương, đã làm gì; nghĩ về gì để có thể vượt qua nghịch cảnh bị phân biệt, bị bỏ quên, thậm chí bị chà đạp… Tất cả là nền tảng cho các động tác, chuyển động.
Tác phẩm "Hương trời" được ra đời từ đó, sau một tháng khổ luyện cùng các em. Đạo cụ duy nhất là những bó chân hương đủ mầu sắc do tôi mua ở cố đô Huế, gợi nhắc quê hương ngày Tết, gợi nhắc những chiếc thúng đội đầu của các bà, các mẹ đi chợ quê. Ở đó có những giai điệu như là hát ru, hòa quyện thanh âm quen thuộc đến từ hai nền văn hóa. Giữa Seoul, thông qua múa đương đại, các em đã có thể kể câu chuyện về những cá nhân người Việt Nam vừa vẹn nguyên văn hóa của quê hương trong tâm hồn mình vừa nỗ lực hòa nhịp cùng văn hóa nước sở tại để sống đúng nghĩa hơn ở đó, trước hết là sống cho chính họ.
Sau buổi diễn, Eun-Me Ahn đã nói với tôi: "Bạn phải làm việc vì đất nước của bạn nữa đấy. Tôi đưa bạn đến đây để bạn thấy rõ hơn về một quang cảnh nghệ thuật biểu diễn đương đại ở châu Á. Tôi đã quá già rồi, và bạn sẽ thuộc thế hệ tiếp sau dẫn dắt...". Eun-Me Ahn đã khiến tôi bật khóc.
Tới đây, nếu đủ duyên, chị sẽ gặp lại tấm chiếu hoa ấy trong một vở múa được truyền cảm hứng từ tiếng trống trận Tây Sơn. Mọi thứ đã ở trên bàn làm việc của tôi ba năm nay rồi…
- Chân thành cảm ơn anh về cuộc trò chuyện!

