Tây Thái Bình Dương

Một giao lộ lịch sử

Vùng biển ấy đã từng chứng kiến rất nhiều cột mốc đáng nhớ trong lịch sử thế giới cận đại, với sự xác lập hoặc sụp đổ vị thế của hàng loạt "đại cường". Ở thời điểm hiện tại, đó vẫn là một khu vực địa chính trị mang ý nghĩa then chốt, và vẫn sẵn sàng "dậy sóng".

Ngày 28-5-1905, khi trận hải chiến lừng danh Ðối Mã (Tsushima, eo biển nằm giữa bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản) kết thúc, đế quốc Nhật Bản chính thức gia nhập hàng ngũ những cường quốc hàng đầu thế giới, và đế quốc Nga Sa hoàng bắt đầu lụn bại. Trên con đường triệt thoái về Vla-đi-vô-xtốc, hạm đội Thái Bình Dương thứ hai, dưới quyền chỉ huy của Ðô đốc Rô-giét-xven-xky (Rozhetsvensky) đã bị hải quân Nhật của Ðô đốc Tô-gô (Heihachiro Togo) chặn lại và tiêu diệt gần như toàn bộ (chỉ còn ba tàu chạy thoát). Ðó là giọt nước làm tràn ly cay đắng mà Sa hoàng phải uống cạn, sau những thất bại liên tiếp trong hơn một năm chiến tranh Nga - Nhật, ở Mãn Châu Lý, ở sông Áp Lục, ở Hoàng Hải, ở cảng Lữ Thuận...

  Cường quốc hải quân mạnh thứ hai trên thế giới vào thời điểm đó (sau Anh) gục ngã, đế quốc Mãn Thanh hoàn toàn bị kiềm chế, và một thời kỳ đầy tham vọng mở ra cho nước Nhật quân phiệt. Trong khi hải quân Nga bị đẩy lui vào những không gian nhỏ hẹp, hải quân Nhật Bản 'hoành hành' suốt một dải Tây Thái Bình Dương từ bắc xuống nam, khống chế mọi trục giao thương đường thủy. Ở Chiến tranh thế giới thứ hai, họ thậm chí đã áp đảo hải quân Mỹ khá lâu sau trận Trân Châu Cảng, và buộc quân Ðồng minh phải mở 'con đường Miến Ðiện' đầy gian khổ nhằm tiếp tế cho quân Trung Hoa Quốc dân Ðảng của Tưởng Giới Thạch.

Song, chu kỳ đó cũng đã khép lại vào năm 1945. Cùng những bước quân hành sấm sét của Hồng quân Liên Xô trên bộ, chiến lược 'nhảy đảo' của hải quân Mỹ tạo nên một gọng kìm thép, bóp nghẹt quân đội Thiên hoàng tại vùng biển này, chấm dứt giấc mộng 'xưng hùng xưng bá' của Nhật Bản.

Tây Thái Bình Dương (đặc biệt là Tây Bắc) đã từng là nơi 'diễu võ giương oai' của những 'siêu cường', và bây giờ vẫn vậy. Trong 'Chiến tranh Lạnh', nhờ quyền kiểm soát được thiết lập khá vững vàng, nước Mỹ đã luôn có khả năng vươn tay đến Viễn Ðông để thực hiện ý muốn của mình: dựng lên và cứu giúp các đồng minh, 'chư hầu'; đồng thời thiết lập một hàng rào phòng ngự từ xa.

Liên bang Nga hiện tại, cũng như Liên Xô trước kia, với những hải cảng chỉ có thể sử dụng được vào mùa hè (mà hệ quả là nếu muốn hiện diện tại đây, những hạm đội của họ sẽ phải trải qua hành trình dài gấp bội, phí tổn gấp bội, vòng qua mũi Hảo Vọng và Ấn Ðộ Dương), đã phải 'nhẫn nhịn' nhìn 'chuỗi đảo thứ nhất' của Mỹ dựng lên chắn trước mặt mình. Cũng nhờ vậy, Nhật Bản có thể toàn tâm toàn ý từ bỏ địa vị 'cựu cường quốc quân sự', để tập trung cho mục tiêu thăng tiến trong vai trò là một cường quốc kinh tế. Và cũng nhờ vậy, kể từ sau năm 1949, eo biển Ðài Loan vẫn là một ranh giới chưa thể vượt qua đối với Quân đội Trung Quốc đại lục. Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Hoa đã phải cố gắng 'co mình chờ thời' và thực hiện chiến thuật 'tàm thực' trong cách quãng.

5000 năm lịch sử, chưa có hạm đội nào của Trung Quốc thật sự kiểm soát được vùng biển này. 50 năm trở lại đây, Hạm đội Thái Bình Dương của Mỹ mới là những vị 'sen đầm trên biển' đích thực. Bởi vậy, khi nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới đang trỗi dậy mạnh mẽ và nỗ lực mở tung những cánh cửa ra đại dương, khi tiếp sau sự hé mở của tham vọng 'chia đôi Thái Bình Dương' là những cuộc xâm nhập và một kế hoạch tập trận cụ thể, khi một trật tự cũ đang manh nha bị xáo trộn, thì những động thái quyết liệt và những biến chuyển lớn lao là hoàn toàn có thể xuất hiện trên giao lộ lịch sử này, với sự tác động từ nhiều phía.