Mối quan hệ gắn bó, hữu nghị (kỳ 1)

Sau kháng chiến chống thực dân Pháp, bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, ngay từ năm 1961, một đất nước xa về khoảng cách địa lý và đặc biệt là có đặc điểm chính trị khác với Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao và cất lên tiếng nói ủng hộ Việt Nam kháng chiến. Đó là Morocco (Ma-rốc). Từ chiếc cổng do chính những người hàng binh dựng lên tại Ba Vì (Hà Nội, Việt Nam) năm xưa cho đến nay là một chặng đường quan hệ hữu nghị với nhiều tiềm năng, cơ hội chung giữa hai nước đang thúc giục được khai thác, phát huy.
0:00 / 0:00
0:00
Cổng Morocco hiện nay.
Cổng Morocco hiện nay.

Kỳ 1: Chiếc cổng đặc biệt

Tại xóm 4, thôn Việt Long, xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì, Hà Nội, từ hơn 60 năm trước, mọc lên một công trình đặc biệt. Đó là chiếc cổng mang dáng nét truyền thống của người Morocco. Công trình này từng là nơi gửi gắm nỗi nhớ quê hương của những người dựng lên nó: Những người hàng binh châu Phi trong kháng chiến chống Pháp. Đến nay, nó được coi là hình ảnh tượng trưng cho tình hữu nghị và đoàn kết các dân tộc.

Tầm nhìn của Bác và sự bao dung của Việt Minh

“Nhiều đoàn nước bạn, nước ta đều đã lên thăm cổng. Các gia đình con cháu của những người hàng binh Morocco trước kia thì thường đến thăm trực tiếp. Đoàn của Ban quản lý di tích, danh thắng thành phố thì lên cách đây chưa lâu, rồi đoàn của Đại sứ quán Morocco, của Hạ viện, và tổ chức cựu chiến binh của nước bạn… nữa”. Đó là thông tin từ anh Nguyễn Hồng Huy, công chức văn hóa xã Tản Lĩnh, huyện Ba Vì.

Anh Huy cùng trưởng thôn Phạm Kim Tiến đưa chúng tôi đến thăm cổng Morocco. Chếch phía trên, bên trái ngôi nhà mới trong khuôn viên nhỏ nhưng sạch sẽ, có bóng cây và mấy bụi hoa, chiếc cổng hiện lên sừng sững. Bốn chân hình trụ chắc khỏe tạo thành ba vòm cổng với những đường hoa văn hình mắt lưới tạo nên vẻ thanh thoát, lịch lãm. Chiếc cổng vẫn giữ nguyên hình dáng từ khi được xây dựng lên hơn sáu thập kỷ trước.

Theo các chuyên gia lịch sử, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là giai đoạn cuối và trong chiến dịch Điện Biên Phủ, có nhiều người lính da mầu đã rời bỏ hàng ngũ chạy sang xin hàng quân đội Việt Minh. Những người hàng binh đó kể, do nhiều người bỏ chiến hào quá, chỉ huy Pháp còn cho xích chân họ vào súng. Nhưng cũng không ngăn nổi sự chán ghét cuộc chiến phi nghĩa và lòng quyết tâm từ bỏ việc bắn giết, nhiều người lính đã giúp nhau chặt xích để chạy sang phía ta. TS Lê Phước Minh, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Hữu nghị và hợp tác Việt Nam-Morocco chia sẻ, nhắc lại thời kỳ này lại càng thấy tài của Cụ Hồ. Thời điểm xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thực dân Pháp cần nhiều lính nên huy động từ các nước thuộc địa sang đông, trong đó có nhiều lính người Morocco và một số nước châu Phi khác. Trước đó, vào năm 1949, Bác Hồ đã nhận định tình hình và đề nghị Đảng Cộng sản Morocco cử cho Mặt trận Việt Minh một đồng chí ủy viên Trung ương Đảng của bạn nhằm giúp ta làm công tác nghiên cứu tâm lý và địch vận. Đồng chí đó mang tên M’hammed Ben Aomar Lahrech, sang Việt Nam được Bác Hồ đặt tên Việt cho là: Anh Mã. Đồng chí Mã đã có đóng góp quan trọng vào việc tham mưu, cố vấn cho ta trong việc tuyên truyền, thuyết phục nhiều lính Pháp cũng như đón nhận khi họ buông súng hàng Việt Minh.

“Người Morocco ngoài tiếng Pháp còn nói tiếng Ả-rập nên ta sử dụng cả ngôn ngữ này để địch vận, rất hiệu quả. Khi hàng binh chạy sang, bộ đội ta chia sẻ cho họ miếng cơm, manh áo. Đưa họ về tuyến sau, khi đi qua suối, bộ đội ta còn đưa súng cho họ cầm hộ. Sau này, chính những hàng binh đó đã ca ngợi đất nước và con người Việt Nam thật tuyệt vời. Chứng tỏ công tác địch vận và chính sách đối xử của ta hiệu quả đến mức nào”, TS Minh cho biết.

Mối quan hệ gắn bó, hữu nghị (kỳ 1) ảnh 1

Ông Hạ giới thiệu hình ảnh một lần họp mặt Hội Việt - Phi bên cổng Morocco.

Đến chiếc cổng Morocco ở Ba Vì

Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, trong tình hình lúc bấy giờ, Đảng, Bác Hồ và Nhà nước ta đã có một quyết định rất thiện chí, nhân văn. Đó là đưa hơn 300 hàng binh người châu Âu, châu Phi cùng hơn 100 cán bộ, công nhân người Việt Nam lên Ba Vì - Hà Nội, thành lập Tập thể sản xuất Ba Vì, sau đổi là Nông trường Việt Phi Ba Vì, còn gọi là làng Việt Phi. Tại đây, mọi người trồng dứa, sắn, khoai, nuôi bò sữa, có sự hỗ trợ của bộ đội ta và nhân dân địa phương, sau này dần đưa các hàng binh trở về quê hương. Sống giữa vùng bán sơn địa Ba Vì, nhớ gia đình, đất nước, những người hàng binh có nguyện vọng xây một chiếc cổng theo lối truyền thống của quê hương mình. Họ được phía ta hỗ trợ tích cực về vật liệu và cả công sức.

Ông Nguyễn Xuân Hạ hiện sinh sống tại xã Tản Lĩnh, ở tuổi 84 vẫn nhớ những ngày từ quê Cầu Giẽ, Phú Xuyên - Hà Nội lên nông trường làm công nhân cơ khí, thuộc biên chế của Tổng cục Chính trị. Năm đó 1960, ông 21 tuổi, khi ông về đây thì cổng vừa quét vôi. Ông Hạ kể, các hàng binh lao động nhiệt tình, chấp hành tốt quy định chung và được hưởng lương. Người Việt mình thì từ khắp nơi lên: Chi Nê (Mỹ Đức - Hà Tây trước kia), Nam Định, Thái Bình, Hà Bắc, Hà Nội, Phú Thọ… Nông trường được phân ra các tổ, đội. Ông Hạ nhớ lại: “Điều kiện ăn ở, nhà cửa mình làm đàng hoàng. Có đủ hành chính, bảo vệ, nhà ở, nhà tiếp khách, câu lạc bộ và một hội trường to lắm… Nhà ở thì phía sau câu lạc bộ, có 4 dãy, mỗi dãy 7 đến 10 gian, mỗi gia đình ở 1 nhà”.

Những gia đình ấy, chính là từ một số hàng binh với các chị em ở nông trường và địa phương. Sinh sống trên địa bàn lâu, nhiều người có tình cảm với nhau một cách tự nhiên. Theo thời gian, nhiều nước thuộc địa của Pháp giành lại chủ quyền, tình hình quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với các nước được củng cố, cộng với sự thuận lợi về thủ tục, đi lại, đầu những năm 1970, chính phủ hai nước có chủ trương hồi hương, các hàng binh Morocco được trở về quê hương châu Phi, mang theo gia đình của họ và những ký ức không bao giờ phai nhạt về những năm tháng Ba Vì và chiếc cổng Morocco mà họ đã dựng lên ở Việt Nam.

Những năm ở nông trường, số hàng binh người Morocco đông hơn cả. Chiếc cổng Morocco là nơi gửi gắm tình cảm chung của cả các hàng binh một số nước khác. Sau này khi tất cả hàng binh đã về nước, cổng lại được những người Việt Nam gìn giữ. Thời bao cấp khó khăn, chật vật, chiếc cổng từng bị ai đó lấy xà-beng chọc trộm để tìm lõi sắt bán nhưng không có. “May mà không có sắt thép gì, chứ không thì đã không còn”, ông Hạ cười: Mà sao hồi đó lại xây chắc chắn thế chứ! Cho đến gần đây, cổng được xã hội hóa sửa sang, trát lại, quét sơn mới, vẫn cứng chắc.

Theo TS Lê Phước Minh, người Morocco có ở nhiều nước, nhất là ở Canada, Lào, Campuchia… nhưng chưa nơi nào có chiếc cổng như ở Việt Nam. Ông Phạm Kim Tiến thì kể, là trưởng thôn nên ông hay được đón, và liên hệ với chủ nhà để đưa các nhóm khách vào thăm cổng. Phó Chủ tịch UBND xã Tản Lĩnh Phạm Văn Hiệp nói: Rất hân hạnh cho địa phương khi được đón tiếp và tham gia công tác tổ chức khi có các đoàn ngoại giao, cán bộ văn hóa, lịch sử lên tham quan cổng. Chúng tôi mong có những chỉ đạo, hướng dẫn cụ thể để có thể khai thác giá trị, ý nghĩa chiếc cổng này vào phát triển du lịch ở địa phương.

Và tình cảm những người Việt

Ông Hạ lập gia đình năm 1965, làm rể Sơn Tây và ở lại trên đất nông trường. Suốt nhiều năm sau này, ông là một trong những thành viên tích cực nhất giữ gìn chiếc cổng và kết nối để giữ mối liên hệ giữa những người Việt Nam từng làm việc ở nông trường, sau này sống trên địa bàn hay đã chuyển về các vùng quê Hải Phòng, Hà Bắc, Ninh Bình..., hoặc về tận trong Nam. Hội Việt-Phi Ba Vì được thành lập năm 2004, quy tụ các chàng trai, cô gái, cán bộ, trại viên năm xưa từng lên khai phá mảnh đất đá ong xứ Đoài mà thời điểm đó nhiều người đã lên chức ông, bà, chức cụ. Do tuổi ngày càng cao, sức khỏe hạn chế nên việc gặp mặt cũng thưa dần qua các năm. Thành viên tính đến nay còn khoảng 80 người. “Một trong những mục đích lập nên Hội Việt-Phi Ba Vì chính là để giữ gìn chiếc cổng Morocco”, ông Hạ khẳng định. Chính vì thế mà thời gian qua, các ông, các bà vẫn có ý kiến với địa phương, đề nghị có phương án đền bù, hỗ trợ di dời cho hộ gia đình đang ở cạnh cổng hiện nay để mở rộng khuôn viên, xây một gian nhà nhỏ gần đó làm nơi trưng bày ảnh, hiện vật lưu niệm. Trong ước mong của nhiều người, đây sẽ là không gian văn hóa-lịch sử phục vụ công tác ngoại giao, hoạt động tham quan, du lịch để bạn bè Morocco và một số nước châu Phi cũng như khách quốc tế biết đến một địa điểm đặc biệt, một công trình nhỏ nhưng mang ý nghĩa đoàn kết các dân tộc, do chính các hàng binh châu Phi dựng lên.

Năm ngoái, dịp kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, khách lên đây thăm cổng nhiều lắm, ông Hạ kể: Các đoàn có lãnh đạo cao cấp dẫn đầu cũng có. Còn bà Phùng Thị Oanh, chủ ngôi nhà nơi có chiếc cổng Morocco tọa lạc thì cho biết: Lá rụng nhiều, tôi phải quét liên tục. Trước ông nhà tôi còn, ai đến thăm đều tiếp. Giờ tôi ở nhà, có ai đến, là đoàn hay khách lẻ tôi đều mở cửa tạo điều kiện vào tham quan.

Bà Oanh còn kể, cách đây chưa lâu, có bạn lên thăm cổng, kể chuyện mới sang Morocco, bên đó hầu hết những người hàng binh xưa đều đã qua đời, nhưng vẫn có một cộng đồng làng Việt Nam, của những người phụ nữ Việt Nam lấy chồng là hàng binh Ma-rốc và con cháu của các ông bà. Thậm chí còn có cả một chiếc cổng làng Việt Nam do chính những người làng xây dựng lên, trên đất nước Morocco.

(Còn nữa)