Mẳm hẻn

Hôm rồi, thầy Lù Đoàn, giáo viên Trường cao đẳng Y tế Sơn La gửi xuống cho một lọ mẳm hẻn. Vậy là mấy ngày qua, tôi được ngồi nhâm nhi những bữa ăn dậy hương vị của một miền đất rừng xa lắc. Tây Bắc - Sơn La - Phiêng Ngùa - bản Sẳng…, những cái tên gắn bó một đời người nghĩ chỉ còn trong ký ức, bỗng hôm nay hiện lên rờ rỡ trước mặt mình. 

Như chỉ đợi ngay sáng mai này, lúc hừng đông, khi mà con gà trống choai nuôi từ chiếc lồng tre đầu sàn của thằng Hản con trai ông già Hoản cất tiếng gáy tẻ te là mình có thể thắt bao dao, gánh đôi bung, mang theo chiếc sa - một loại vợt hình tam giác - vượt con dốc sau nhà vào thung sâu kiếm măng lay, vợt tô hẻn. 

Miền đất ấy, sau những ngày nắng nôi có những cơn mưa rào đền ơn cây cối. Mưa nhuần làm vạn vật như bừng tỉnh. Cỏ cây hoa lá đua nhau lớn dậy khiến lối mòn lên nương hẹp lại. Bụi lay tua tủa đâm măng. Những cây măng lay chỉ bằng ngón tay lấy về luộc cả vỏ, bữa ăn bỏ cả ra mâm, ai ăn người ấy tự bóc. Măng lay bó gọn mươi lăm chiếc được gánh bán ở mọi nẻo đường đến chợ Chiềng Lề. Cây măng lay thon như búp tay gái bản, ngọt mát và chỉ có thể ngon ngọt hơn khi có được món chấm không thay thế được của bà con dân bản vùng này. Món mẳm hẻn. 

Và không chỉ măng lay. Qua tiết trọng thu, sắn trên nương đã vào mùa tích bột. Củ sắn dỡ về bóc vỏ trắng ngần trộn lẫn nếp Tan qua bàn tay ếm (mẹ) làm nên  món xôi thơm dậy đầu hồi. Xôi sắn dỡ ra tơi bở. Món xôi sắn vào mùa bình dị nuôi sống con người, nuôi dài kỷ niệm một thời gian khó, nuôi mãi ký ức của những người đã từ miền đất ấy ra đi, để mỗi khi lòng chợt chao về với rừng với núi mà thấy mình thảng thốt. Không hiểu vì sao lòng người day dứt? Thì ra, đó là khi, có một ngày nhàn tản, bỗng dưng không đâu lại được chạm vào những món ăn chỉ có ở một nơi mà mình đã từng gắn bó. Và đó là mẳm hẻn.

Chẳng biết còn có nơi nào lại có một món ăn riêng biệt, nối dài dư vị đến thế hay không? Nhưng dám chắc rằng, món ăn riêng biệt ấy, được đặt trong khung cảnh của miền đất đã sống lúc tuổi trẻ chưa qua. Thì, những gốc cây, con dốc, lòng thung, đoạn suối thấm sâu vào tâm khảm mình… 

Tô hẻn không sống ở vùng nước chảy. Tô hẻn không sống ở nơi nước đục. Thung nham mùa khô xanh cỏ hoặc khô nỏ đá xanh. Mùa mưa, những thung khô đầy ắp nước. Thung nước trong veo có lá cây rụng xuống làm nơi cho tô hẻn sống một đoạn đời trước khi bay lên làm thành một loại côn trùng chẳng mấy ai biết tên. Con tô hẻn non đỏ au chỉ ít ngày sau lớn thêm ngả mầu hạt huyền trông như mắt cá và chỉ to bằng hạt ổi. Những con tô hẻn chen chúc nhau bên rệ cỏ đầm nước sẽ trở thành côn trùng bay đi nếu không bị vớt về làm mẳm hẻn. Mùa mưa qua đi, thung nham khô lại. Đợi đến sang năm một mùa tô hẻn mới lại về.

Dân bản dùng sa vợt từng bụm tô hẻn đổ vào bung gánh về, rửa lại bằng nước trong và đợi cho ráo nước. Cứ bốn bát tô hẻn trộn theo một bát muối trắng, cho vào hũ kín để chừng hơn tuần đem ra trộn đều với ớt và tỏi giã dập. Muối, ớt, tỏi, chỉ ba loại gia vị ấy thôi nhưng vẫn có những người năm nào cũng làm nên món mẳm hẻn được người già khen đến độ. Ngược lại, có những gia đình, bàn tay người nữ làm mẳm hẻn ít được khen hơn…

Mẳm hẻn chấm măng rừng. Mẳm hẻn chấm thịt ba chỉ. Mẳm hẻn dùng để ăn với xôi sắn. Để làm món chấm quanh năm trong bữa cơm của người miền núi. Mẳm hẻn thơm ngon chạm vào đầu lưỡi là chạm vào hồn vía đất đai làng bản. Như đã được trở về.