Cuối năm 2021, trái ngược với xu hướng trên toàn cầu, số liệu thống kê cho thấy giá hàng hóa tại Việt Nam có dấu hiệu tăng chậm so với thế giới. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong 10 tháng đầu năm 2021, chỉ có tháng 2 tăng mạnh ở mức 1,52%, chín tháng còn lại chỉ tăng hoặc giảm nhẹ trong khoảng -0,2% đến 0,6%. Dự báo, CPI của cả năm 2021 tăng ở mức 2,1-2,3%. Đây là mức thấp nhất trong vòng sáu năm qua.
Giải thích về vấn đề này, các chuyên gia kinh tế cho rằng, giá chậm tăng do sức sản xuất, sức cầu của nền kinh tế còn yếu. Nhóm hàng hóa thiết yếu ngoài lõi không tăng mà còn giảm nhẹ nhờ nguồn cung dồi dào. Cũng do sức cầu yếu, cho nên dù giá đầu vào tăng mạnh, nhưng giá bán đầu ra chưa thể tăng khiến nhiều doanh nghiệp chấp nhận biên lợi nhuận giảm để giữ nguyên giá và giảm giá.
Nhưng hãy thử phân tích sức cầu của người dân đối với các sản phẩm và dịch vụ theo một cách khác. Đặc biệt ở nhóm đối tượng là những người lao động đã không thể bám trụ lại ở các thành phố lớn, những khu công nghiệp, những đối tượng như lao động tự do, lao động thời vụ, lao động bị mất việc trong nhiều tháng...
Trong nhiều tháng qua, chúng ta đã chứng kiến làn sóng di chuyển của những người lao động về quê hương. Và ngay khi thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía nam mở cửa trở lại, xuất hiện những đợt di chuyển lớn của các lực lượng lao động tại đây. Nguyên nhân do những người này đã không còn khả năng nuôi sống bản thân và gia đình, không còn tích lũy và không đủ năng lực để có thể tồn tại sau bốn tháng chịu ở yên tại chỗ để phòng, chống dịch bệnh.
Trong bốn tháng ở yên tại chỗ, người dân phải bỏ tiền chi tiêu cho những nhu cầu thiết yếu của bản thân và gia đình mà không có nguồn thu lại. Đây chính là những của cải mà họ mất đi. Số tiền tích lũy của họ để gửi về quê, để sửa sang nhà cửa hay mua cho mình một mặt hàng nào đó như một chiếc điện thoại, một chiếc tivi... đã phải chuyển thành tiền để chi trả cho các mặt hàng nhu yếu phẩm trong bốn tháng không có công việc. Đây cũng là số tiền tiềm năng mà các ngành sản phẩm và dịch vụ khác mất đi. Trong doanh số của một cửa hàng sẽ bớt đi một chiếc điện thoại hay một chiếc tivi, một người thợ xây có khả năng mất đi một công việc thời vụ của mình, một nhà hàng sẽ mất đi vài suất ăn cuối tuần, một công nhân sẽ mất đi thu nhập do doanh nghiệp phải cắt giảm giờ làm hay ngưng sản xuất... Đây là những thí dụ điển hình cho thấy vì sao sức cầu kém đi trong nền kinh tế. Những người lao động đã không còn khả năng để mua, dù vẫn có nhu cầu đối với các sản phẩm dịch vụ.
Khi đề cập đến số lượng người mất việc phải về quê lại xuất hiện một nghịch lý. Đó là có những khu công nghiệp phải đóng cửa hoặc ngưng sản xuất nhưng lại có những nơi thiếu lao động. Điều này xảy ra do một số khu công nghiệp không tuyển lao động là người ngoại tỉnh. Chưa kể, một số lao động dù đã có công việc ổn định tại các nhà máy, xí nghiệp nhưng vì lo ngại dịch bệnh nên đã bỏ về quê.
Đây là điều mà chúng ta phải cảnh giác trong những tháng tiếp theo vì ở thời điểm hiện tại, chúng ta vẫn chưa giải quyết được dứt điểm những khó khăn do đại dịch Covid-19 gây ra, chưa kể đến mối đe dọa của biến chủng Omicron đang lây lan trên toàn cầu. Và còn xuất hiện một số tin đồn liên quan tới việc chuyển dịch sản xuất của các hãng nước ngoài vì họ bị mất doanh số khi không bảo đảm được sản xuất do đứt gãy chuỗi cung ứng.
Vào đầu tháng 11, Giám đốc tài chính của Adidas, ông Harm Ohlmeyer đã nói rằng, việc đóng cửa tại Việt Nam do Covid-19 đã ngăn cản việc sản xuất 100 triệu mặt hàng trong nửa cuối năm nay, dẫn đến thiệt hại doanh thu cho hãng khoảng 1,1 tỷ USD. Dù cuối năm đã có những tin vui như Lego đổ một tỷ USD xây dựng nhà máy tại Việt Nam, nhưng chúng ta cũng phải cảnh giác và nhanh chóng giải quyết những bất cập để các hãng nước ngoài yên tâm đầu tư sản xuất ở Việt Nam.
Hiện tại, chúng ta cần tập trung xử lý những khó khăn như khan hiếm nguồn hàng, đứt gãy chuỗi cung ứng, gián đoạn trong khâu giao vận, cùng với áp dụng hài hòa các giải pháp để đối phó với lạm phát đang được dự đoán sẽ ở mức cao trong năm tới. Theo dự đoán của các chuyên gia, mức lạm phát năm 2022 sẽ ở mức 3,4-3,7%. Dù con số này thấp hơn mục tiêu dưới 4% nhưng nó là mức tăng mạnh so với trung bình toàn cầu và các nước ASEAN.
Lạm phát do cả cầu kéo lẫn chi phí đẩy sẽ khiến giá cả hàng hóa tăng cao trong năm 2022. Để đối phó với lạm phát, trước hết chúng ta phải ổn định thị trường lao động, phân bổ lao động một cách hợp lý. Và quan trọng nhất là phục hồi sức mua của người lao động.
Người lao động không quan tâm đến con số, họ chỉ quan tâm đến những sản phẩm dịch vụ mà mình sử dụng hằng ngày có tăng giá hay không? Cần phải hiểu sức cầu không chỉ là nhu cầu mua của người dân mà là nhu cầu mua một sản phẩm kèm theo khả năng chi trả của họ cho sản phẩm đó. Và cách xử lý lạm phát một cách khả quan nhất trong mắt người dân là họ sẽ vẫn mua những sản phẩm dịch vụ thiết yếu với một tâm lý thoải mái.