Hoa thủy tiên có những đặc điểm gần như khác biệt với hoa phượng. Hoa phượng là hoa biểu trưng của mùa hè. Thủy tiên là hoa của mùa xuân. Nói chuẩn xác hơn, thủy tiên là hoa của ngày Tết, bởi chỉ nó chỉ ra hoa vào dịp Tết. Hoa phượng khỏe khoắn, nồng nhiệt bao nhiêu thì thủy tiên e ấp, dịu dàng, tao nhã bấy nhiêu.
Thủy tiên rất kén người chơi. Nó không hợp lắm với những ai có gu thẩm mỹ nông cạn, ăn xổi ở thì. Thuở tôi còn tuổi nhi đồng, cứ mỗi dịp áp Tết, cha tôi lại lên chợ Rồng - thành phố Nam Ðịnh - mua về một vài củ thủy tiên. Củ thủy tiên trông giống như củ hành tây. Cha tôi dùng con dao têm trầu thật sắc cắt tỉa nơi đầu củ thành những góc nhọn như những cánh sao, để cho những ngày sau mầm cây trồi lên từ những chỗ cắt tỉa đó thật đều đặn. Cắt tỉa xong cha tôi rửa thật sạch củ thủy tiên rồi thả vào một cái bát thủy tinh trong suốt mà trong đó đã đựng sẵn nước mưa, loại nước mưa hứng từ mùa thu, a-xít đã bị thời gian làm nhạt. Hằng ngày cha tôi theo dõi sự nảy mầm, lên cây, kết nụ. Nếu nụ ra sớm quá hoặc muộn quá, cha tôi dùng nước lạnh hoặc nước nóng để điều tiết, sao cho hoa nở đúng vào đêm giao thừa. Khi những bông hoa năm cánh trắng tinh vừa e ấp nở, hương thơm dịu, tinh khiết, sang trọng của nó sẽ lan tỏa ra khắp nhà, làm xao động trái tim người. Hương thủy tiên cuốn quyện với mùi hương trầm tạo thành một hương vị thiêng liêng rất đặc trưng của đêm giao thừa xứ Bắc.
Thế rồi chiến tranh phá hoại lan ra miền bắc. Người Việt Nam khi ấy có quá nhiều việc lớn lao hệ trọng phải làm. Tết nhất cũng giản tiện đi. Dần dà tôi không còn nhìn thấy những người như cha tôi ngồi cẩn trọng tỉa từng nhát dao nhọn trên củ thủy tiên vào dịp áp Tết nữa. Thời gian trôi đi, những tưởng chuyện chơi hoa thủy tiên đã vĩnh viễn biến mất khỏi miền đồng bằng châu thổ sông Hồng của tôi. ấy thế mà vào dịp Tết 1980, lần đầu tiên tôi gặp lại loài hoa này tại chợ sắt, thành phố Hải Phòng. Chuyến tàu từ giữa mùa đông các thủy thủ tàu Vút-cô đã mua từ Nhật Bản về hàng thùng. Mỗi thủy thủ chọn một vài củ đem về nhà chơi, còn thì họ gửi bán ở các hàng hoa, cây cảnh. Nhìn các thủy thủ cao lớn, nâng niu những bát hoa thủy tiên, tôi băn khoăn tự hỏi: Những người đi biển thường quen ăn sóng nói gió, vì sao lại thích chơi loài hoa "yểu điệu thục nữ" này? Sau ngẫm ra mới hiểu: suốt cả năm họ lênh đênh trên biển, đối mặt với sóng to gió lớn, cho nên trong ba ngày Tết họ rất cần được bù đắp bằng sự dịu dàng, lắng đọng trong ngôi nhà tổ ấm của mình. Hương thủy tiên giúp họ tĩnh tâm mà suy ngẫm, mà liên tưởng, rằng dù giàu có đến đâu chăng nữa mà đôi mắt không nhìn thấy cái đẹp trác việt ẩn chìm, cái mũi không còn nhận biết được mùi hương vi diệu mà thiên nhiên ban tặng thì cuộc sống sẽ trở nên thô giản, vênh lệch, trống vắng biết nhường nào!
Nhờ đọc văn chương mà tôi biết ở xứ lạnh châu Âu cũng có loài thủy tiên hoa vàng. Gọi là "thủy" nhưng lại được trồng trong vườn và trên sườn đồi, y như trồng hoa huệ hay hoa lay-ơn. Hẳn là loài thủy tiên hoa vàng này cũng đã được đưa sang Ðà Lạt, nên trong bài thơ Hoa thủy tiên, thi sĩ Hoàng Phủ Ngọc Tường viết:
Có một loài hoa không biết tên
Vàng tươi như là nỗi buồn riêng
Tôi e những hạt linh hồn ấy
Rơi xuống thành hoa giữa tự nhiên...
Hoa thủy tiên Á Ðông không thể trồng đại trà ngoài vườn ngoài đồi như thủy tiên châu Âu. Nó phải ươm trong nước mưa sạch. Nước càng tinh khiết hương hoa càng vi diệu. Nó là thứ hoa rất kén người chơi, kén cả người làm thơ về nó. Trong số ít những bài thơ viết về hoa thủy tiên trắng, có lẽ đáng chú ý nhất là bài Thủy tiên của cụ Tam nguyên Trần Bích San:
Băng vi cơ phách ngọc vi nhan
Tiếc ỷ đông song tận nhật nhàn
Thập nhị tiên nâu hà xứ sở
Ngẫu tùy lưu thủy đáo nhân gian.
Dịch là:
Thịt da băng tuyết, ngọc dung nhan
Cười dựa song đông suốt buổi nhàn
Hơn chục lầu tiên đâu những nẻo
Ngẫu xuôi dòng chảy xuống nhân gian.
Những ngày này, ghé qua chợ Ðồng Xuân tôi vẫn thấy ở khu vực hàng hoa người ta bày bán khá nhiều củ thủy tiên. Tôi chẳng lấy làm ngạc nhiên, bởi người Hà Nội vốn dĩ rất sành chơi hoa, không lẽ gì lại bỏ qua loài hoa vương giả, quý phái này.