Đô thị thông minh phải có dữ liệu và vì con người

Sự ra đời của Nghị định 269/2025/NĐ-CP, khung pháp lý toàn diện đầu tiên cho đô thị thông minh đã mở ra một chương mới cho sự phát triển của đô thị thông minh ở Việt Nam với cách nhìn nhận rõ ràng.

Người dân xem mô hình vận hành quản lý cụm công nghiệp tại Hà Nội. Ảnh: NGUYỆT ANH
Người dân xem mô hình vận hành quản lý cụm công nghiệp tại Hà Nội. Ảnh: NGUYỆT ANH

Hơn 10 năm theo đuổi việc xây dựng các giải pháp quản lý tòa nhà bằng công nghệ thông minh, ông Lê Thành Luân, Giám đốc Điều hành Công ty S-tech cho biết, có sự thay đổi rất lớn trong nhận thức của xã hội về việc ứng dụng công nghệ trong quản lý và vận hành.

“Khoảng 10 năm trước, một doanh nghiệp công nghệ rất khó để tiếp cận hay thuyết phục ban quản lý các tòa nhà hay người dân chấp nhận chia sẻ thông tin để kết nối các ứng dụng quản lý tòa nhà một cách hiệu quả. Nhưng nay nhiều chủ đầu tư, ban quản lý đã chủ động tìm đến doanh nghiệp công nghệ giúp họ giải quyết hiệu quả các vấn đề bằng ứng dụng hiện đại”, ông Luân chia sẻ.

Lần đầu có “luật chơi” đồng bộ cho đô thị thông minh

Sau hơn 7 năm triển khai Đề án phát triển đô thị thông minh bền vững, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Người dân được tiếp cận nhiều tiện ích thông minh hơn trong y tế, giáo dục, giao thông; doanh nghiệp hưởng lợi từ dịch vụ công trực tuyến.

Theo PGS, TS Hoàng Hữu Hạnh, Phó Cục trưởng Chuyển đổi số quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ): “Lần đầu tiên, Việt Nam có một khung pháp lý tương đối đầy đủ, bao trùm từ quy hoạch, đầu tư, xây dựng đến vận hành đô thị thông minh. Điều này giúp chấm dứt tình trạng mỗi nơi làm một kiểu, mỗi dự án là một "ốc đảo" công nghệ”.

Điểm nhấn của Nghị định là việc đặt ra khung kiến trúc tổng thể quốc gia số (ICT) cho đô thị thông minh, thúc đẩy xây dựng bản sao số (digital twin), cho phép triển khai sandbox (cơ chế thử nghiệm) công nghệ mới, đồng thời thiết lập cơ chế phối hợp liên ngành và huy động mạnh mẽ nguồn lực xã hội. Đây được xem là “xương sống thể chế” để các địa phương không chỉ làm nhanh hơn, mà quan trọng hơn là làm đúng hướng, chấm dứt giai đoạn “thử nghiệm rời rạc”.

Một điểm thống nhất cao giữa các nhà hoạch định chính sách là mối quan hệ song hành giữa chuyển đổi số và đô thị thông minh. Chuyển đổi số chính là công cụ triển khai, còn đô thị thông minh là không gian ứng dụng thực tiễn. Hai quá trình này gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau, tạo nên hiệu quả tổng hợp trong quản trị đô thị hiện đại.

Thực tế cho thấy, những địa phương đi đầu về chính quyền số, dữ liệu mở và nền tảng số thường cũng là những nơi có bước tiến rõ nét trong xây dựng đô thị thông minh. Đà Nẵng là thí dụ điển hình.

Ông Trần Chí Cường, đại diện UBND thành phố chia sẻ: “Thành phố bắt đầu từ Kiến trúc Chính quyền điện tử năm 2010, đến vận hành hệ thống chính quyền điện tử năm 2014, và chính thức triển khai Đề án thành phố thông minh năm 2018 với 6 trụ cột, 16 lĩnh vực ưu tiên và 53 chương trình, dự án cụ thể”.

Điều quan trọng hơn cả, theo ông Cường, là cam kết chính trị mạnh mẽ và triết lý “lấy con người làm trung tâm”. “Thành phố thông minh không phải để khoe công nghệ, mà để giải quyết những vấn đề rất đời thường của người dân”, ông nói.

Chính triết lý đó đã giúp Đà Nẵng liên tục được vinh danh ở các giải thưởng quốc tế, trong đó có Giải thưởng Thành phố thông minh Seoul 2023 ở hạng mục “Lấy con người làm trung tâm”.

Đô thị thông minh không phải đích đến mà là một hành trình

Tuy nhiên, phía sau những con số tích cực, quá trình phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam thời gian qua cũng bộc lộ hàng loạt “điểm nghẽn”.

Báo cáo của Cục Chuyển đổi số quốc gia chỉ ra 5 vấn đề lớn, đó là tư duy coi đô thị thông minh là dự án công nghệ rời rạc, thiếu cơ chế điều phối liên ngành, dữ liệu nhiều nhưng chưa hình thành “trí tuệ đô thị”. Bên cạnh đó, hiện tại nguồn lực đầu tư dàn trải, thiếu sức hút với khu vực tư nhân. Đặc biệt là thiếu nhân lực quản trị đô thị số, dữ liệu và AI.

Ở góc nhìn của Bộ Xây dựng, TS Trần Ngọc Linh, Cục Phát triển đô thị, Bộ Xây dựng cho rằng, còn rất nhiều thách thức cần giải quyết trong phát triển đô thị thông minh ở Việt Nam.

“Chúng ta vẫn thiếu thống nhất về khái niệm, thiếu quy chuẩn để liên thông, thiếu cơ chế đặc thù trong mua sắm đấu thầu, và thiếu cơ chế huy động vốn xã hội hóa đủ mạnh”, ông thẳng thắn nhìn nhận.

Một trong những thông điệp xuyên suốt được các chuyên gia nhấn mạnh là đô thị thông minh không phải cuộc đua công nghệ. “Đô thị thông minh không phải đích đến công nghệ, mà là con đường phát triển mới”, PGS, TS Hoàng Hữu Hạnh khẳng định.

Theo đó, bản chất của đô thị thông minh là mô hình phát triển đô thị hiện đại, trong đó dữ liệu, trí tuệ nhân tạo (AI) và quản trị số trở thành nền tảng để nâng cao chất lượng sống, tối ưu dịch vụ công và hướng tới phát triển bền vững.

Quan điểm này cũng được TS Trần Ngọc Linh chia sẻ khi cho rằng, nếu chỉ coi đô thị thông minh là việc lắp thêm cảm biến, camera hay trung tâm điều hành, thì rất dễ rơi vào “bẫy hình thức”, tốn kém nhưng không tạo ra giá trị thật cho người dân và doanh nghiệp.

Một trong những khái niệm rất đáng chú ý mà TS Nguyễn Nhật Quang, Viện Khoa học và Công nghệ VINASA nhắc tới là “Bản sao số” (Digital Twin). TS Nguyễn Nhật Quang, Viện Khoa học và Công nghệ VINASA cho rằng, đây chính là “trái tim kỹ thuật số” của đô thị thông minh trong giai đoạn mới.

Theo TS Quang, bản sao số không chỉ là mô hình 3D, mà là một thực thể sống động, có khả năng ghi nhớ, phân tích, dự báo và tối ưu hóa đô thị dựa trên dữ liệu từ internet vạn vật (IoT), con người và các hệ thống nghiệp vụ. Đặc biệt, mô hình “Bản sao số liên hợp” cho phép kết nối các bản sao số cấp xã, quận, tỉnh thành một chỉnh thể thống nhất nền tảng lý tưởng cho mô hình chính quyền địa phương hai cấp.

Từ góc độ quản lý nhà nước, ông Nguyễn Phú Tiến, Phó Vụ trưởng Kinh tế số và Xã hội số, Bộ KH&CN nhấn mạnh, đô thị thông minh là một mô hình kinh tế và phương thức quản trị đô thị mới, trong đó dữ liệu là tài nguyên, là tài sản cốt lõi.

“Không chỉ Nhà nước, mà người dân, cộng đồng và doanh nghiệp cũng phải tham gia chia sẻ dữ liệu, trên cơ sở khung pháp lý rõ ràng, đặc biệt là Luật Dữ liệu”, ông Tiến lưu ý.

Ở góc độ doanh nghiệp, ông Hoàng Tuấn Anh, Giám đốc Dự án Meey Group (số hóa ngành bất động sản), cho rằng dữ liệu mở và dữ liệu liên thông là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp công nghệ tham gia sâu vào hệ sinh thái đô thị thông minh. “Khi dữ liệu được coi là tài sản chung và được khai thác minh bạch, doanh nghiệp sẽ có thêm động lực đầu tư, đổi mới sáng tạo và đồng hành cùng địa phương”, ông Tuấn Anh nói.

Trong khi đó, ông Lê Thành Luân, nhấn mạnh vai trò của các cơ chế thử nghiệm linh hoạt và phân cấp rõ ràng. “Doanh nghiệp sẵn sàng tham gia các dự án đô thị thông minh xanh và bền vững nếu có sandbox, có cơ chế PPP (đầu tư theo phương thức đối tác công tư) phù hợp. Khi đó, dữ liệu không chỉ phục vụ quản lý, mà còn tạo ra giá trị kinh tế mới”, ông Luân khẳng định.

Từ thực tiễn và ý kiến của các bên liên quan, các chuyên gia thống nhất rằng giai đoạn tới cần một sự chuyển đổi mạnh mẽ về tư duy và cách làm.

Trước hết là triển khai nghiêm túc Nghị định 269/2025/NĐ-CP, rà soát và điều chỉnh các đề án đô thị thông minh cấp tỉnh theo hướng đồng bộ, gắn với quy hoạch và chiến lược phát triển bền vững.

Bên cạnh đó, cần thành lập các hội đồng điều phối liên ngành đủ mạnh ở cấp tỉnh, xây dựng chiến lược dữ liệu và AI bài bản, đổi mới mô hình đầu tư theo hướng PPP, thuê dịch vụ số. Đặc biệt chú trọng đào tạo đội ngũ lãnh đạo, cán bộ đô thị số có năng lực quản trị dựa trên dữ liệu.

Phát triển đô thị thông minh ở Việt Nam đang bước sang một giai đoạn mới - giai đoạn của thể chế, dữ liệu và con người. Nếu biết tận dụng cơ hội từ Nghị định 269, từ chuyển đổi số và từ sự đồng hành của doanh nghiệp, đô thị thông minh hoàn toàn có thể trở thành động lực mới cho tăng trưởng bền vững và nâng cao chất lượng sống của hàng chục triệu người dân đô thị Việt Nam trong những thập niên tới.

Theo Bộ Xây dựng, 37 địa phương đã ban hành và triển khai đề án hoặc kế hoạch phát triển đô thị thông minh. Các bộ, ngành đã ban hành 45 tiêu chuẩn liên quan.