Chúng ta học được gì từ quốc tế ?

Với những nút thắt trong hệ thống và cơ chế, không dễ để có giải pháp triệt để cho sự phát triển của hệ thống đào tạo cao đẳng (CĐ). Vậy nên, việc nhìn ra thế giới để rút ra những bài học cho mình có ý nghĩa rất quan trọng.

Cần chấm dứt việc nâng cấp CĐ lên ĐH và tạo cơ chế liên thông tốt giữa các cơ sở đào tạo.
Cần chấm dứt việc nâng cấp CĐ lên ĐH và tạo cơ chế liên thông tốt giữa các cơ sở đào tạo.

Ở Mỹ, giáo dục bậc cao, hay còn gọi là giáo dục sau trung học, tức các trường đào tạo có cấp bằng tựu trung có ba loại trường chủ yếu, CĐ cộng đồng, các trường nhân văn (liberal arts college), và các trường đại học (ĐH).

CĐ cộng đồng thường đào tạo hai năm, nhưng cũng không nhất thiết như vậy. Các trường này không tuyển chọn đầu vào gắt gao, và thường có mức học phí thấp hơn so với các trường tư hay các ĐH công. Sinh viên học hết hai năm có thể chuyển tiếp sang các trường ĐH để lấy bằng cử nhân. Các trường này không chỉ tiếp nhận học sinh phổ thông và là một bước chuyển tiếp vào ĐH, mà còn nhằm đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người dân. Những trường này có thể nhấn mạnh việc đáp ứng nhu cầu cải thiện kỹ năng làm việc cho người lao động, cũng như đáp ứng nhu cầu nhân lực cụ thể của từng địa phương. Tính chất này đặc biệt rõ ở Anh và các nước chịu ảnh hưởng hệ thống Anh. CĐ cộng đồng chủ yếu dành cho người đã đi làm. Tuy thế, các trường CĐ cộng đồng cũng có thể đào tạo bốn năm và cấp bằng cử nhân. “College” ở Mỹ có khi tương đương với một khoa trong trường ĐH ở Việt Nam, nhưng cũng có thể là một trường độc lập. Một loại rất phổ biến là các trường được gọi là Liberal arts college, là những tổ chức độc lập không thuộc về trường ĐH nào, đào tạo cấp bằng cử nhân, quy mô nhỏ chừng vài nghìn sinh viên, nhấn mạnh giảng dạy tương tác trong những lớp ít sinh viên, tỷ lệ sinh viên trên giảng viên khá thấp, và ít dùng trợ giảng. Những trường này tuy được gọi là liberal arts nhưng vẫn đào tạo các môn chuyên ngành như kinh tế, tài chính, quản trị kinh doanh, công nghệ, v.v, và nhấn mạnh giáo dục tổng quát. Họ thường mạnh về các ngành như Ngôn ngữ, Triết, Âm nhạc và Nghệ thuật.

HÀ LAN có một hệ thống giáo dục sau trung học rất đáng xem xét, do được phân luồng từ rất sớm. Giáo dục tiểu học ở Hà Lan là bắt buộc từ 4 đến 16 tuổi, và có thể bắt buộc từ 16 đến 18 tuổi tùy địa phương. Tiểu học gồm tám lớp. Từ lớp chín học sinh được phân luồng, dựa trên kết quả kiểm tra năng khiếu, ý kiến của cha mẹ và khuyến nghị của giáo viên năm lớp tám. Học sinh có thể chọn một trong ba luồng và có thể chuyển sang luồng khác để tiếp tục nếu muốn: (i) “VMBO”có thể xem là tương đương với sơ cấp chuyên nghiệp của Việt Nam, gồm bốn cấp lớp, học xong có thể tiếp tục trung học nghề; được cấp bằng trung học nghề thì được quyền vào các trường ĐH định hướng nghề nghiệp - ứng dụng hay còn gọi là các trường khoa học ứng dụng (applied sciences universities), tạm gọi tắt là các trường ứng dụng, hay ĐH ứng dụng. (ii) “HAVO” có năm lớp, học xong thì có quyền vào các trường ĐH ứng dụng để được cấp bằng cử nhân. Hai loại VMBO và HAVO chủ yếu dạy những kiến thức thực tế và thực hành. (iii) “VWO” có sáu lớp và chuẩn bị cho học sinh vào các trường ĐH nghiên cứu. Các trường nghiên cứu này đào tạo ba năm cho bằng cử nhân, một hoặc hai năm tiếp theo cho bằng thạc sĩ, và cuối cùng là bốn năm đào tạo tiến sĩ. Nghiên cứu sinh tiến sĩ Hà Lan được coi là người ăn lương tạm thời của nhà trường.

Theo bảng xếp hạng mới nhất của tạp chí Times (Times Higher Education) về giáo dục ĐH trên thế giới công bố vào tháng 3-2012, Hà Lan là quốc gia có hệ thống giáo dục tốt thứ ba thế giới với năm trường ĐH trên tổng số 13 trường ĐH nghiên cứu lọt vào top 100 trường ĐH hàng đầu thế giới.

Một lý do cho những kết quả đó chính là do cấu trúc hệ thống có sự phân biệt sứ mạng rõ ràng giữa các loại trường để đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội, và để tập trung nguồn lực vào mục tiêu.

Từ đó, chúng ta có thể học được gì? Nhiều chuyên gia giáo dục đã có những khuyến nghị cho Việt Nam là: Đẩy mạnh việc phân tầng để các trường xác định sứ mạng phù hợp và tạo ra một hệ sinh thái ĐH đa dạng; Chấm dứt việc nâng cấp các trường CĐ thành ĐH, thay vào đó, tạo ra một cơ chế liên thông tốt giữa các trường và giữa CĐ với ĐH; Khích lệ các trường CĐ, ĐH cộng đồng hướng tới phục vụ những ngành nghề cần thiết nhất của địa phương và tạo điều kiện học tập suốt đời; Đẩy mạnh công tác truyền thông giúp xã hội khắc phục cách nhìn hạn chế về bằng cấp và thông tin đầy đủ hơn về những công việc, ngành nghề xã hội đang có nhu cầu, thu hẹp khoảng cách giữa hoạt động đào tạo của các trường và nhu cầu của xã hội; Có thể cân nhắc sử dụng nguồn vốn ngân sách, thậm chí vốn vay, hỗ trợ tất cả các trường xây dựng lại chương trình đào tạo theo hướng gắn chặt với thế giới việc làm, coi thực tập và học tập tại nơi làm việc là một điều kiện không thể thiếu để xét tốt nghiệp.