Chặng đường đầy thách thức

Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) “Từ chặng đường cuối đến chặng đường kế tiếp đánh giá thực trạng nghèo của Việt Nam” cho biết, Việt Nam là quốc gia thu nhập trung bình ở ngưỡng thấp sẽ phải đối mặt với chặng đường đầy thách thức và bỡ ngỡ trong thời gian tới để đạt tới các ngưỡng của quốc gia thu nhập trung bình cao và quốc gia thu nhập cao, trong bối cảnh nền kinh tế và khí hậu toàn cầu đang có nhiều thay đổi.
Mức tiêu dùng hộ gia đình đạt tăng trưởng cao, ở mức khoảng 5%/năm. Ảnh: NGUYỆT ANH
Mức tiêu dùng hộ gia đình đạt tăng trưởng cao, ở mức khoảng 5%/năm. Ảnh: NGUYỆT ANH

Theo WB, trong thập kỷ vừa qua, công cuộc giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được các kết quả đầy ấn tượng. Tính trung bình, mức tiêu dùng hộ gia đình đạt tăng trưởng cao, ở mức khoảng 5%/năm. Căn cứ chuẩn nghèo dành cho quốc gia thu nhập trung bình thấp (LMIC) của WB (3,2 USD/ngày tính theo ngang giá sức mua năm 2011), tỷ lệ nghèo đã giảm từ 16,8% năm 2010 xuống còn 5% vào năm 2020. Có nghĩa là 10 triệu người đã thoát nghèo, số người nghèo đã giảm xuống còn 5 triệu người vào năm 2020.

Tăng trưởng trong thập kỷ qua ở Việt Nam nhìn chung có tính chất bao trùm, do những cải thiện về phúc lợi đạt được trên toàn bộ phân bố kinh tế hộ gia đình. Sự thoát nghèo diễn ra đồng đều ở hầu hết các nhóm, nhiều gia đình thoát nghèo chỉ trong vòng một thế hệ. Một số nhóm có nhiều cơ hội vươn lên tầng lớp kinh tế cao hơn…

Thu nhập từ lương của các hộ gia đình tăng đáng kể, với mức tăng danh nghĩa (chưa điều chỉnh theo lạm phát) lên đến gần 100 triệu đồng/năm, nghĩa là gần gấp ba lần trong thập kỷ vừa qua. Thu nhập từ lương của hộ gia đình ở nhóm 20% thu nhập thấp nhất cũng tăng gấp ba lần. Tuy nhiên, mức tăng tuyệt đối chỉ hơn 50 triệu đồng. Thu nhập từ nguồn tự sản xuất, kinh doanh trong hộ gia đình tăng ở mức tương đương, nhưng các hộ nghèo ít có điều kiện tự sản xuất, kinh doanh. Tỷ lệ các hộ gia đình có thu nhập từ lương tăng từ 64% lên 70% trong thập kỷ vừa qua. Đặc biệt, tỷ lệ tham gia các công việc hưởng lương đòi hỏi kỹ năng trung bình và phi nông nghiệp đã và đang tăng lên, mang lại thu nhập cao và ổn định hơn cho các hộ gia đình. Trong nhóm 10% nghèo nhất, tỷ lệ hộ gia đình tham gia việc làm ở các lĩnh vực chế tạo và chế biến tăng từ 26,7% năm 2010 lên 35,8% năm 2020. Tỷ lệ hộ gia đình tham gia việc làm ở các lĩnh vực dịch vụ cũng tăng tương đương (9,4% lên 15,2%), nhưng thấp hơn ở nhóm hộ nghèo.

Hiện tại, mặc dù mức lương ở Việt Nam đã tăng gấp đôi từ năm 2010 đến năm 2020 nhưng vẫn còn thấp, chỉ gần 300 USD/tháng. Và để đi tới chặng đường kế tiếp, là con đường dẫn đến mức sống của quốc gia có thu nhập trung bình cao và thu nhập cao, cần phải chuyển đổi cơ cấu liên tục để chuyển sang các lĩnh vực có năng suất cao hơn và hiện đại hơn. Người dân cần có trình độ học vấn và kỹ năng để sẵn sàng đảm nhận những công việc phức tạp hơn nhưng đem lại năng suất cao, bên cạnh khả năng quản lý rủi ro hiệu quả; ngoài phát triển nền kinh tế, điều đó còn tạo điều kiện bao trùm để các hộ gia đình vươn lên đồng đều về kinh tế. Đây là quá trình chuyển đổi nhiều thách thức vì tỷ lệ tham gia lao động và tỷ lệ có việc làm không thể tăng nhiều so giai đoạn 2012-2018 và trong điều kiện dân số tiếp tục già hóa theo dự báo, số lượng lao động sẽ giảm và năng suất của những người đang làm việc cần được tăng lên mới có thể duy trì tăng trưởng.

Từ năm 1991 đến 2018, tăng trưởng GDP bình quân đầu người thực tế là 5,6%/năm; và tốc độ đó cần được nâng lên mức 6,7% từ nay đến năm 2045 để Việt Nam có thể trở thành quốc gia thu nhập cao. Để đạt được mức đó, tăng trưởng năng suất trên mỗi lao động sẽ cần tăng từ 5,3%/năm (trong giai đoạn 2012-2018, mức tăng cao nhất trong ba thập kỷ qua) lên 6,6%/năm, nghĩa là có mức gia tăng khoảng 20% mỗi năm. Với tốc độ tăng được duy trì như từ năm 2012 đến năm 2018, Việt Nam sẽ dễ dàng trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2045, nhưng sẽ còn thiếu khoảng 4.000 USD so mức thu nhập cao là 14.000 USD.

Trong các giải pháp được đưa ra để tiến tới mục tiêu là quốc gia thu nhập cao, WB khuyến nghị nên tập trung vào các chính sách tài khóa vì đây là công cụ mạnh mẽ của Chính phủ có thể đem lại thịnh vượng chung cả trong ngắn hạn và dài hạn. Chính sách tài khóa của Việt Nam có nhiều khả năng đạt kết quả tốt hơn về đầu tư cho tăng trưởng bao trùm. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy các quốc gia trở nên giàu có hơn một phần nhờ đầu tư công nhiều hơn vào các yếu tố thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng bao trùm.

Theo WB, để huy động tài chính cho đầu tư công với mục tiêu xóa nghèo, phát triển tầng lớp trung lưu, bảo đảm an ninh kinh tế, Việt Nam có thể mở rộng cơ sở tính thuế (thuế thu nhập cá nhân, thuế tài sản), cân nhắc áp dụng các sắc thuế mới để vừa huy động thu vừa xử lý tác động ngoại ứng tiêu cực (chẳng hạn như thuế khuyến dụng cho sức khỏe thu trên đồ uống có cồn, thuốc lá và đồ uống có đường; thuế môi trường như thuế carbon), hoặc mở rộng ra các hoạt động kinh tế số đang phát triển, đồng thời loại bỏ những ưu đãi thuế mang tính lũy thoái.

Ngoài ra, chi tiêu công cần được định hướng phù hợp. Các nội dung chi không bảo đảm hiệu suất và công bằng như trợ giá điện, vừa khuyến khích sử dụng điện vừa chủ yếu có lợi cho các hộ giàu, cần được tái định hướng sang các mục đích bao trùm và hiệu quả hơn. Chẳng hạn, Việt Nam nên hài hòa mức chi an sinh xã hội cho phù hợp thông lệ quốc tế để phát triển một hệ thống hiện đại giúp các hộ gia đình quản lý nhiều loại rủi ro mà họ phải đối mặt.

Chính sách cần có mục tiêu kép để vừa xử lý những thách thức về tình trạng đói nghèo trong hiện tại, vừa đặt nền tảng nhằm thực hiện mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao. Những thách thức đó có trở thành rào cản ngày càng lớn trong ngắn hạn, hay rào cản dài hạn trong lộ trình nâng cao phúc lợi của các hộ gia đình ở Việt Nam hay không sẽ phụ thuộc vào sự ưu tiên và hành động chính sách.