Sống ở đô thị nhưng người Hà Thành vẫn không quên các món quà quê, năm xu một hào là có bát ngô rang nóng hổi đong bằng chiếc bát gỗ bé xíu, hoặc vài chục hạt lạc hay hạt dẻ rang nóng đựng trong chiếc phễu giấy cuốn như loa kèn, ăn thì chẳng bao nhiêu, nhưng lại thỏa mãn cái thú ăn vặt như đã 'nằm trong máu' của không ít người. Lạ một nỗi, ăn vặt không no nhưng nhiều người vẫn thích. Ngay cây lúa thân thiết và quan trọng đến thế mà để thỏa mãn thú ăn vặt, đám trẻ cũng hành cho tơi tả. Khi lúa mới ra đòng thì tuốt đòng, mới có câu 'ăn đòng đòng bà đánh còng lưng!', lúa nếp vừa đọng 'sữa' là đã bị vặt đem về cầm cả bông hơ qua trên bếp lửa hay tuốt ra rồi đảo qua trên chảo, thế là đã có thứ để 'cắn chắt'. Về chuyện cắn chắt, gần đây tôi được đọc một entry kể chuyện với con trên blog.timnhanh.com có đoạn rất thú vị, diễn tả y xì chuyện cắn chắt và đám học trò Hà Nội đi học sơ tán, mạn phép tác giả xin trích một đoạn: 'Bài học mẹ thích thú nhất lúc này là cắn chắt: 'Chắt' đó là một thứ lúa nếp hoa vàng mà ở đó người ta gọi là 'lọ nếp' được rang lên đến chín. Có hạt nổ trắng xóa, có hạt nứt vỏ thơm lừng. Bọn con nít trong thôn đi học đứa nào cũng đựng đầy hai túi. Chỉ có bọn sơ tán là không có nên nhìn chúng nó cắn chắt là thèm ghê lắm.
Theo tôi, cắn chắt là một kiểu thói quen ăn vặt, vừa để thưởng thức một món gì đấy có vẻ khoái khẩu, vừa 'không cho cái miệng nghỉ ngơi'. Kẹo kéo, kẹo bột, kẹo vừng, kẹo 'dồi',... thịnh hành một thời có lẽ là để đáp ứng nhu cầu này. Nói thế lại nhớ kẹo bột, mùa đông ngậm viên kẹo có vị gừng, cũng thấy ấm người. Tương tự như thế, buổi tối mùa đông mà ngồi vỉa hè, xì xụp làm bát phở gánh, tương ớt làm nước mũi chảy ròng ròng mà vẫn cứ xuýt xoa khen ngon. Thời các bác xếnh xáng còn ở Hà Nội, đi ngoài phố hay gặp các bác bán 'bi ngon ngon bi giòn giòn', kẹo hồng, bánh đùi gà, bánh chín tầng mây, bánh bò, bánh bao, lạc rang húng lìu... 'Bi ngon ngon bi giòn giòn' đựng trong hộp kính, có dây đeo trước bụng, ai mua thì cho viên bi vào cái phễu giấy, năm xu được chục viên, đám trẻ như tôi ăn hết rồi vẫn dốc ngược cái phễu, hy vọng còn sót một hai viên ở đáy.
Nhớ ngày tôi đi sơ tán tại một làng ở miền trung du. Làng khá heo hút, hằng ngày ngoài một buổi đi học, tôi ở nhà với mẹ, thi thoảng theo đám bạn bè đi chăn trâu, lấy củi. Một trong các thú vui của tôi ngày ấy là theo mẹ đi chợ, mà chỉ được đi vào phiên nào trùng với chủ nhật và mỗi hôm mẹ thường cho tôi một hào, muốn mua gì thì tôi tự mua. Một lần, thấy mẹ mặc cả lâu quá, tôi tót đi một mình. Loanh quanh một lúc, tôi dừng lại trước một bà bày dưới là cái thúng, trên là cái mẹt đựng những miếng hình chữ nhật màu gan gà, tẩm bột trắng. Nghĩ đó là chè lam, tôi mua năm xu được hai miếng, bà cụ lấy lá chuối khô gói cho tôi mà mắt nhìn là lạ. Chạy về chỗ mẹ, tôi đưa ra khoe. Mẹ nhìn hai miếng chè lam trên tay tôi và nói: 'Sao con lại mua cái thứ này, của đàn bà 'ăn dở' chứ, mang trả lại đi!'. Nghe mẹ nói vậy, tuy chẳng biết 'ăn dở' là gì, tôi vẫn lon ton chạy đến chỗ bà cụ để trả. Về sau đi bộ đội, trên đường hành quân, đêm nghỉ lại đúng nơi tôi từng sơ tán ngày trước, tò mò hỏi bác chủ nhà, bác bảo đó là đất sét nung non dành cho các chị 'ăn dở', thế mà hồi bé tôi lại tưởng là chè lam!
Nói đến ăn vặt, lại nhớ lần tôi đến bản của đồng bào Ba Na, Rơ Ngao ở Kon Tum. Ði loanh quanh trong bản, thấy dưới cầu thang một nhà sàn có một tốp cô gái Ba Na, Rơ Ngao đang ngồi xúm xít, tôi lân la làm quen. Nghe tôi hỏi chuyện, các cô cứ ôm nhau cười, giả vờ không biết tiếng Kinh. Hỏi chuyện một lúc không được, thấy cũng hơi vô duyên, tôi định chào các cô và đi chỗ khác. Nhưng nhìn vào chiếc cối gỗ các cô đang ngồi vây quanh, thấy trong đó có đu đủ xanh thái mỏng trộn với lạc, tôi hỏi đó là cái gì, tôi ăn được không, một cô nhanh nhảu mời. Tôi thò tay bốc một miếng. Nhai trong miệng thấy vừa đắng đắng, vừa mặn, vừa chát, vừa cay, vừa chua, vừa rất... khó tả. Thế rồi, 'miếng đu đủ thành đầu câu chuyện', để tôi và các cô trò chuyện như pháo ran. Hóa ra lên nương về, các cô ngồi chơi thấy buồn mồm. Liền hái đu đủ xanh thái mỏng, trộn với lạc rang giã nhỏ, đường, nước mắm, ớt, thành một món ăn chơi. Trưởng bản nay tên là Ngô, 43 tuổi mà đã có tới 11 đứa con. Vợ anh vừa bế cháu ngoại vừa bế con út. Anh Ngô đi vắng, tôi ngồi ở đầu sàn trò chuyện với vợ anh. Chị Ngô rất vui tính, 40 tuổi, nhìn khỏe mạnh. Con gái đầu của chị mới sinh con thứ hai, nên cháu lớn đem gửi bà. Khi về, tôi đứng cạnh chân cầu thang chào, rồi nói vọng lên: 'Thôi nhé, đẻ 11 đứa thôi!'. Chị đứng trên sàn trả lời: 'Bảo thằng Ngô ấy!', rồi ré lên cười. Bản của bà con người Ba Na, Rơ Ngao này còn lưu giữ một tục khá độc đáo. Ðôi trai gái nào ưng ý nhau, nếu nhà trai chưa có tiền cưới hỏi thì chàng trai có thể sang nhà gái ở, bao giờ nhà trai có tiền mới cưới. Mấy ngày ở lại bản, tôi đã đi theo một đoàn đón dâu. Chú rể khoác một chiếc túi to bự đựng quần áo, còn cô dâu thì tay dắt một con, tay bế một con. Từ xa thấy hai vợ chồng cười tươi như hoa.
Cái thú ăn vặt còn đeo bám cuộc sống hằng ngày của con người thì các hàng quà vặt còn có cơ tồn tại, và người ta phát minh ra các 'kiểu' quà vặt mới, vừa tạo điều kiện thuận lợi vừa kích thích nhu cầu. Thích ứng với thời đại, người bán quà vặt bây giờ cũng có phong cách fastfood, tức là họ cũng sản xuất 'thức ăn nhanh'. Các món như mít, mía, dứa, củ đậu, củ mã thầy,... đều được bóc, gọt, róc, tiện sẵn rồi cho luôn vào túi ni-lông, đến nước mía, nước rau má, chè thập cẩm cũng cho vào túi lại cắm cả cái ống hút. Với sự tiện lợi ấy, người sử dụng vừa giữ được tay sạch sẽ, còn nếu cần thì cho vào túi xách đem đến cơ quan mà không ai biết, lúc rảnh thì lấy ra, chị em cùng tí tách hoặc nhấm nháp.
Kể ra thì quà vặt thật vô kể, mỗi miền lại mỗi khác, có lẽ vì còn phụ thuộc vào sản vật ở địa phương. Nhưng xét đến cùng thì quà vặt trước sau vẫn là quà vặt, không bao giờ có thể thay thế bữa ăn chính hằng ngày, nhưng hình như với người Việt, quà vặt luôn là thứ không thể thiếu!