Vũ Duy Nghĩa, nhân chứng sống động của một tiến trình văn nghệ

Từ mồng 9 tới 16/3, tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam sẽ diễn ra triển lãm mang tên “Khắc chân trời” của cố họa sĩ Vũ Duy Nghĩa (1935-2022). Ông là một trong những người cuối cùng của khóa sinh viên hội họa Tô Ngọc Vân (1955 -1957) - khóa học đầu tiên của trường Mỹ thuật Việt Nam sau khi kháng chiến chống Pháp thành công. Sau đây là những lời bình luận có ý nghĩa sắp đặt tôn vinh trong lịch sử mỹ thuật đương đại, về vai trò và những thành quả đã đạt được của ông.
“Tổ ba người” (Sơn mài-2001).
“Tổ ba người” (Sơn mài-2001).

Con người tác giả và nghệ thuật tác phẩm của Vũ Duy Nghĩa có thể coi là một tiêu bản nghiên cứu cho lịch sử suốt 30 năm 1960-1980 phát triển nghệ thuật trên miền bắc xã hội chủ nghĩa, nối bước hai tiền bối mà theo tôi, nhìn tranh mà đoán, là Sĩ Ngọc và Nguyễn Sáng.

Vũ Duy Nghĩa thuộc lớp nghệ sĩ trẻ đầu tiên dưới mái trường xã hội chủ nghĩa (XHCN), được tu nghiệp ở Liên Xô hùng cường - quê hương và thánh đường của nghệ thuật vô sản toàn thế giới, rồi trở thành một giảng viên uy tín nhất của Trường đại học Mỹ thuật công nghiệp và sáng tác bền bỉ trên hai lĩnh vực đồ họa và hội họa suốt nửa thế kỷ đầy biến động.

Vũ Duy Nghĩa kiên định các nguyên lý thẩm mỹ nhân văn, tạo hình của trường phái hiện thực XHCN từ bình minh huy hoàng nhất tới buổi chiều tà quên lãng của nó. Vì thế, sáng tác của ông cũng là nhân chứng sống động của một tiến trình văn nghệ Việt Nam. Không mặc cảm “sám hối”, những nghệ sĩ chân thực như ông hoàn toàn tự hào về những thời sự nghệ thuật đã qua, vì tác phẩm của mình đã để lại những giá trị vượt thời gian, thời thế.

Nói một cách khái quát, thì có ba nguyên lý trong sáng tác hiện thực XHCN. Thứ nhất, nhân vật điển hình không phải các cá nhân độc đáo, mà là các anh hùng/nhân vật của thời đại, tức công - nông - binh. Thứ hai, họ xuất hiện ở tình huống điển hình trong hoạt động của mình. Thí dụ như bộ đội trong chiến hào Điện Biên, bên chiến lũy Hà Nội, nông dân hợp tác trục lúa, cấy lúa, gánh lúa tập đoàn, ngư dân kéo lưới tập thể, công nhân vào ca, tự vệ chong đèn trực chiến... Và cuối cùng, khó nhất, là tính cách điển hình, thường không liên quan gì đến cá nhân cụ thể mà phải mang nghĩa tượng trưng, đại diện cho một hiện thực giả định đáng mong đợi nào đó.

Trong khi hai tiêu chí đầu dẫn đến bệnh công thức và sơ lược giống nhau, tràn lan thì tiêu chí thứ ba, mà Vũ Duy Nghĩa là một trong những người thành công nhất, mang lại những giá trị thẩm mỹ nhân văn cao cả và đáng tin. Các nhân vật trên tranh của ông, từ lão ngư dân, bà bủ, bác dân quân, anh thợ lò, chú bộ đội cho tới những cô thôn nữ hay anh tự vệ thủ đô năm 1946 hay 20 năm sau đó... tất thảy đều khiến ta tin họ đều có những tên họ và số phận riêng. Đó là điều rất hiếm thấy trong mỹ thuật cùng thời. Tuy nhiên, quần chúng trong tác phẩm của ông có những tính cách chung là sự tự tin, suy nghĩ trầm tĩnh, thoáng những ưu tư thầm kín chứ không lạc quan một chiều. Cơ thể họ mạnh khỏe và tâm hồn họ đôn hậu, kể cả trong các tình huống không điển hình - cũng rất hiếm thấy trong mỹ thuật cùng thời - như nhục hình tra tấn hay cô đơn thống khổ...

Nội hàm điển hình, phải chăng, cũng đòi hỏi hình thức tạo hình tinh lọc tới mức khái quát điển hình tương xứng. Họa sĩ Vũ Duy Nghĩa của chúng ta cứ từ tốn mà kiên trì trau chuốt, chọn lựa mài giũa từng nét, từng mảng, từng góc cạnh đường viền, nhịp điệu khoan nhặt của mỗi chuyển động, từng biến chuyển mầ̀u tinh vi và tối sáng mờ ảo, động dung và cấu trúc cơ thể mỗi dạng nhân vật... khi thực hành với các chất liệu khác nhau, từ trổ giấy tới khắc gỗ, khắc kẽm qua bột mầ̀u hay sơn mài. Ông ưa thích bố cục xoay vòng tròn và những đồng hiện không gian hai chiều ngang và thẳng đứng với tham vọng tạo ra chiều kích thứ ba - chiều sâu - và thứ tư - chiều thời gian - trong những hoạt cảnh được “dàn phẳng” bất động. Ông không ngừng tìm tòi, tạo hình thức điển hình, chắt lọc sao cho ngôn ngữ tạo hình vừa tao nhã tinh tế, vừa mạnh mẽ biểu cảm. Những nỗ lực “hình thức” đó của ông đã khiến đông đảo sinh viên và đồng nghiệp ngưỡng mộ, nể phục.

Sau thời bao cấp, khi điều kiện vật chất đầy đủ hơn, không khí tinh thần sảng khoái hơn, Vũ Duy Nghĩa trải rộng tìm tòi sáng tác về chủ đề và ngôn ngữ: những phong cảnh panorama trữ tình hoành tráng, những pano trang trí thanh nhã, những bố cục đồng hiện phức tạp và những chân dung yểu điệu tượng trưng. Tiếc rằng thành công của họa sĩ với sơn mài ở giai đoạn cuối chưa được đánh giá đúng tầm của nó, khi lớp hậu bối hối hả lao vào nghệ thuật hậu hiện đại, toàn cầu hóa.

Tôi tin rằng trong tương lai không xa, nghệ thuật Việt Nam sẽ trở lại khai thác những giá trị đã vượt qua thử thách thời gian của nghệ thuật hiện thực XHCN mà Vũ Duy Nghĩa là một điểm đến bắt buộc.