TS Trần Hải Linh, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nhân và Đầu tư Việt Nam-Hàn Quốc (VKBIA), Chủ tịch sáng lập Hội Chuyên gia-Trí thức Việt Nam-Hàn Quốc (VKEIA) chia sẻ với Nhân Dân hằng tháng khi góp ý kiến về dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng.
Phóng viên: Dự thảo Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong 40 năm qua ở Việt Nam định hướng các giải pháp tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, xây dựng phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Theo ông, việc xác lập mô hình tăng trưởng mới cần chú trọng những vấn đề gì?
TS Trần Hải Linh: Để thiết lập một mô hình tăng trưởng đột phá đòi hỏi đồng bộ ba yếu tố đặc biệt quan trọng là “Chính sách-Nguồn lực-Thực thi”, đầu tư cả công nghệ, con người, cải cách hoàn thiện thể chế và quản trị rủi ro, chuyển từ “tăng trưởng mở rộng” sang “tăng trưởng dựa trên năng lực sáng tạo, công nghệ cao, nguồn nhân lực chất lượng và phát triển bền vững”. Mô hình tăng trưởng mới phải đạt ba mục tiêu: Tăng trưởng nhanh và ổn định; nâng cao chất lượng sống nhân dân; bảo đảm phát triển xanh, công bằng và an toàn.
Từ góc nhìn đó, tôi đề xuất các hành động then chốt: Nhất quán việc xác định khoa học và đổi mới là trụ cột quốc gia. Tăng tỷ lệ chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) lên mức tương xứng (hướng tới 2-3% GDP dài hạn và cao hơn nữa cho mỗi giai đoạn 5 năm), ưu đãi thuế cho R&D, hỗ trợ thương mại hóa kết quả nghiên cứu; Xây dựng hệ sinh thái đổi mới, kết nối trường đại học, viện nghiên cứu với doanh nghiệp và quỹ đầu tư mạo hiểm; Đổi mới giáo dục để tạo nhân lực chất lượng cao, chuẩn hóa STEM, kỹ năng số, kỹ năng sáng tạo và năng lực quản trị; Thúc đẩy hợp tác quốc tế, trao đổi giảng viên, chương trình kép với các cơ sở đào tạo hàng đầu; Chuyển đổi số toàn diện trong quản trị và doanh nghiệp, đẩy mạnh Chính phủ số, hạ tầng dữ liệu quốc gia, khung pháp lý cho dữ liệu và AI, hỗ trợ SMEs số hóa, đào tạo; Tiếp tục cải cách thể chế, tinh gọn bộ máy và tăng tính minh bạch.
Cùng với đó, đa dạng hóa nguồn vốn cho đổi mới, sáng tạo, phát triển thị trường vốn dài hạn, trái phiếu xanh, quỹ đầu tư mạo hiểm nội địa, khuyến khích kiều hối chảy vào đầu tư đổi mới; Ưu tiên phát triển công nghiệp công nghệ cao và chuỗi giá trị bền vững, thu hút FDI có giá trị gia tăng cao, nâng cấp doanh nghiệp nội địa tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu; Xanh hóa nền kinh tế với khung chính sách rõ ràng cho năng lượng tái tạo, thúc đẩy tiêu chuẩn xanh trong sản xuất và đầu tư; Bảo đảm an sinh và công bằng trong quá trình chuyển đổi; Tăng cường quản trị rủi ro về cả kinh tế, địa chính trị, an ninh mạng; Khai thác mạnh mẽ nguồn lực kiều bào, hợp tác quốc tế; Thiết lập và minh bạch hóa bộ chỉ số đo lường hiệu quả, hiệu suất công việc (KPI) quốc gia cho đổi mới.
- Đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia là chủ trương mới, quan trọng trong Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng. Ưu tiên chiến lược này giúp Việt Nam bứt phá khỏi giới hạn tăng trưởng truyền thống, thưa ông?
Tôi cho rằng đây là “chìa khóa vàng” để Việt Nam bứt phá, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến, mở ra không gian tăng trưởng mới bền vững, tự chủ hơn. Với lực lượng trẻ có trình độ cao, tỷ lệ người dân am hiểu công nghệ cao trong khu vực, hơn 6 triệu người Việt ở nước ngoài, trong đó có hàng trăm nghìn trí thức, chuyên gia công nghệ đang làm việc tại các tập đoàn hàng đầu thế giới, đây là nguồn lực trí tuệ và kết nối toàn cầu vô cùng quý giá, nếu biết khai thác đúng cách, sẽ tạo ra bước nhảy vọt cho đất nước.
Để phát huy được tiềm năng ấy, cần có khung pháp lý cởi mở, minh bạch, linh hoạt cho đổi mới sáng tạo - từ cơ chế thử nghiệm (sandbox) đến chính sách khuyến khích đầu tư vào công nghệ mới, chuyển đổi số trong khu vực tư nhân. Nhà nước phải là “nhà kiến tạo phát triển”, đồng thời giảm rào cản hành chính trong nghiên cứu và thương mại hóa công nghệ. Các trung tâm đổi mới sáng tạo (như NIC, trung tâm cách mạng 4.0, Trung tâm AI, bán dẫn) cần trở thành “hạt nhân lan tỏa” thúc đẩy các ngành công nghệ cao, năng lượng sạch, sinh học, vật liệu mới...
Khuyến khích doanh nghiệp trong nước hợp tác với các tập đoàn quốc tế; có cơ chế để các chuyên gia, trí thức Việt kiều tham gia chuyển giao công nghệ ngược - mang tri thức, tiêu chuẩn và kinh nghiệm toàn cầu về phục vụ đất nước. Cho phép làm việc bán thời gian, xây dựng quỹ hợp tác khoa học xuyên quốc gia và hệ thống thông tin chuyên biệt về nhu cầu công nghệ trong nước để chuyên gia ở nước ngoài có thể kết nối nhanh chóng, hiệu quả.
Chuyển đổi số không chỉ về công nghệ mà là thay đổi tư duy, văn hóa và năng lực của đội ngũ lãnh đạo, công chức, doanh nghiệp và người dân. Cần đầu tư mạnh vào giáo dục số, kỹ năng số và chương trình hợp tác quốc tế trong đào tạo nhân tài.
- Kết nối sức mạnh của người Việt Nam trên toàn thế giới phục vụ mục tiêu phát triển đất nước phản ánh tầm nhìn chiến lược của Đảng. Xin ông chia sẻ về giải pháp “Chủ động đẩy mạnh hợp tác, hội nhập quốc tế về khoa học, công nghệ; xây dựng mạng lưới đổi mới sáng tạo, thu hút chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài”?
Trong thời đại kinh tế tri thức và chuyển đổi số, tri thức-công nghệ-sáng tạo chính là nguồn lực cạnh tranh cốt lõi của mỗi quốc gia. Xây dựng mạng lưới đổi mới sáng tạo toàn cầu gắn với người Việt ở nước ngoài không chỉ giúp Việt Nam tiếp cận nhanh hơn với các xu hướng công nghệ mới, mà còn thúc đẩy chuyển giao tri thức, hợp tác R&D, qua đó tạo bước đột phá trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Từ thực tiễn hoạt động của VKBIA và VKEIA, chúng tôi đã chứng kiến nhiều chuyên gia, trí thức kiều bào thành đạt tại Hàn Quốc và các quốc gia phát triển khác luôn mong muốn được đóng góp cho quê hương. Họ không chỉ mang về tri thức và công nghệ tiên tiến, mà còn kết nối các cơ quan tổ chức, các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học hai nước, mở ra các dự án hợp tác đổi mới sáng tạo, đào tạo kỹ thuật, khởi nghiệp công nghệ.
Tuy nhiên, để chủ trương này thật sự phát huy hiệu quả, cần xây dựng cơ chế linh hoạt, minh bạch và thực chất hơn trong thu hút, sử dụng và tôn vinh trí thức kiều bào. Đặc biệt, tạo môi trường nghiên cứu và sáng tạo mở, khuyến khích chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài tham gia các đề án quốc gia, các chương trình hợp tác công-tư, chuyển giao công nghệ hoặc tư vấn chính sách.
Một điểm rất quan trọng là xây dựng niềm tin và cơ chế phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước - doanh nghiệp - viện nghiên cứu - trường đại học - cộng đồng trí thức Việt Nam toàn cầu. Khi đó, chúng ta sẽ hình thành được một “hệ sinh thái tri thức Việt toàn cầu”, nơi mỗi người Việt Nam ở bất cứ đâu cũng có thể đóng góp trí tuệ, sáng kiến và giá trị cho Tổ quốc.
Với định hướng lớn này, Việt Nam sẽ từng bước hình thành nền tảng đổi mới sáng tạo mang bản sắc Việt, dựa trên sự hội tụ của trí tuệ, tinh thần dân tộc và hợp tác quốc tế sâu rộng - một trong những trụ cột quan trọng để đất nước phát triển nhanh và bền vững trong kỷ nguyên số.
- Theo ông, cần làm thế nào để gắn chặt đối ngoại với phát triển đất nước, không chỉ “nâng tầm mà phải “tương xứng với tầm vóc”; “không chỉ hội nhập sâu” mà còn “phát huy sức mạnh văn hóa, lịch sử, giá trị Việt Nam” để tăng ảnh hưởng quốc tế; không chỉ là đối ngoại “vì Việt Nam” mà còn “đóng góp cho hòa bình, phát triển chung của nhân loại”?
Thế giới đang chuyển dịch mạnh mẽ, các quốc gia không chỉ cạnh tranh về kinh tế, khoa học, công nghệ mà còn về giá trị, bản sắc và năng lực kiến tạo trật tự quốc tế mới. Để đối ngoại gắn với phát triển đất nước, tương xứng với tầm vóc Việt Nam, cần chú trọng ba định hướng:
Thứ nhất, đối ngoại phải đi cùng và phục vụ trực tiếp cho mục tiêu phát triển quốc gia. Tức là mỗi hoạt động hợp tác song phương hay đa phương cần được lồng ghép trong chiến lược phát triển các lĩnh vực trọng tâm - từ khoa học công nghệ, giáo dục, đầu tư, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số đến an sinh xã hội, văn hóa, du lịch. Đối ngoại không chỉ dừng ở “kết nối” mà tạo ra giá trị phát triển thực chất, giúp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút tri thức, công nghệ và nguồn lực quốc tế.
Thứ hai, phải coi ngoại giao văn hóa và ngoại giao nhân dân là cầu nối giá trị. Bề dày lịch sử văn hóa, bản sắc nhân văn, hòa hiếu và sáng tạo chính là “nguồn vốn mềm” để định vị hình ảnh Việt Nam trên trường quốc tế không chỉ là một quốc gia đang phát triển, mà còn đóng góp tích cực cho hòa bình, hợp tác và tiến bộ nhân loại.
Thứ ba, đối ngoại phải chủ động kiến tạo, đóng góp và dẫn dắt trong một số lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh và uy tín, như hợp tác phát triển bền vững, kinh tế xanh, gìn giữ hòa bình, nhân đạo quốc tế, chuyển đổi năng lượng và phát triển con người. Khi đó, chúng ta không chỉ “hội nhập sâu” mà còn “lan tỏa bản sắc Việt Nam” - một quốc gia độc lập, nhân văn, trách nhiệm và có tầm nhìn toàn cầu.
Ở góc độ kiều bào, tôi nhận thấy ngoại giao nhân dân và đối ngoại tri thức kiều bào sẽ là “cánh tay nối dài” hiệu quả nhất để góp phần vào mục tiêu này. Cộng đồng người Việt ở nước ngoài - đặc biệt là đội ngũ trí thức, doanh nhân - có thể truyền tải hình ảnh một Việt Nam năng động, sáng tạo đồng thời góp sức đưa Việt Nam trở thành đối tác tin cậy, thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
- Trân trọng cảm ơn ông!