Từ phục vụ mục đích chính trị
Thực tế cho thấy, tranh giả thường tập trung ở nhóm sáng tác thời Mỹ thuật Đông Dương, với hai cặp tứ trụ của Mỹ thuật Việt Nam: Trí (Nguyễn Gia Trí) - Vân (Tô Ngọc Vân) - Lân (Nguyễn Tường Lân) - Cẩn (Trần Văn Cẩn), và sau là Nghiêm (Nguyễn Tư Nghiêm ) - Liên (Dương Bích Liên) - Sáng (Nguyễn Sáng) - Phái (Bùi Xuân Phái), bên cạnh một số danh họa như Nguyễn Phan Chánh, Lê Phổ, Lưu Công Nhân... Các danh họa này được xem là đại diện cho sự ra đời và hình thành nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam. Theo đó, yếu tố tài năng nghệ thuật luôn gắn liền với yếu tố hoàn cảnh lịch sử, góp phần đẩy giá tranh lên cao và kích thích động cơ làm tranh giả.
Gắn bó với Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam (BTMTVN) ngay từ khi còn trong giai đoạn chuẩn bị cho sự ra đời của nơi này (năm 1964), cho đến tận lúc nghỉ hưu, nhà nghiên cứu mỹ thuật Nguyễn Hải Yến là một thành viên trong nhóm tham gia sưu tập tranh của các danh họa thời mỹ thuật Đông Dương. Theo bà, những năm 1960, việc sưu tập tranh của các danh họa rất dễ dàng, chủ yếu do tấm lòng của họa sĩ cũng như người sở hữu tranh dành cho đất nước. Nhiều bức họa quý được tặng lại cho bảo tàng như một cách bày tỏ sự ủng hộ việc thành lập bảo tàng mỹ thuật của Chính phủ. Chính vì thế, bảo tàng sớm có được một bộ sưu tập đầy đặn, phong phú các sáng tác của những danh họa hàng đầu trong nước. Khi Mỹ bắt đầu chiến dịch ném bom toàn miền bắc, ban giám đốc quyết định sơ tán nhiều bức tranh nguyên bản lên Tuyên Quang, Thái Nguyên. Trong khi đó, bảo tàng vẫn phải tiếp tục thực hiện nhiệm vụ chính trị là tổ chức các triển lãm mỹ thuật lưu động, tuyên truyền về giá trị của nghệ thuật và mỹ thuật cách mạng cũng như góp phần nâng cao nhận thức thẩm mỹ cho nhân dân. Mặt khác, hoạt động trưng bày tại chỗ của bảo tàng vẫn phải được duy trì. Để giải quyết cùng lúc các nhiệm vụ nói trên, việc sao chép lại những bức tranh đã đi sơ tán được đặt ra. “Ban đầu, bảo tàng đặt chính các họa sĩ làm phiên bản tranh của mình” - bà Yến khẳng định. Theo bà, việc lập hồ sơ và “đánh dấu” cho các bản tranh chép cũng được làm khá cẩn thận, như họa sĩ ký vào bên sau tranh, bảo tàng lập hồ sơ riêng cho bản sao,... Nhưng trong hoàn cảnh chiến tranh và càng về sau càng có sự thay đổi nhân sự, những hồ sơ như vậy bị thất thoát ít nhiều. Đặc biệt, sau khi hòa bình thống nhất một thời gian, lại có cuộc chiến khác xảy ra và theo lời bà Yến, bộ tranh gốc còn được sơ tán tận Đà Lạt.
Từ mục đích ban đầu là để phục vụ nhân dân trong hoàn cảnh chiến tranh, việc sao chép tranh khởi nguồn từ BTMTVN đã dần không còn được kiểm soát, bị biến tướng và bị lợi dụng. |
Rõ ràng, BTMTVN là nơi đầu tiên trong nước thực hiện việc sao chép tranh của các danh họa thời kỳ đầu của mỹ thuật Việt Nam hiện đại một cách chính thức. Mục đích ban đầu của công việc này hoàn toàn mang ý nghĩa chính trị và xã hội thuần túy. Chắc hẳn khi đó, các bức tranh quý được nhìn nhận là tài sản xã hội đơn thuần, khác với cách nhìn nhận về sau này của thị trường là tài sản cá nhân và có thể sinh lợi nhuận. Như lời chia sẻ của bà Yến: “Khi đó, chúng tôi không thể hình dung lại có được một thị trường tranh như bây giờ và tranh lại bị coi như một thứ hàng hóa mà người ta có thể làm giả một cách đáng sợ như bây giờ”.
Đến sự biến tướng, mất kiểm soát
Việc nhìn nhận tranh nói chung trong sưu tập của bảo tàng là tài sản xã hội kéo dài cho đến tận gần đây, thể hiện qua việc tiếp tục công tác sao chép tranh phục vụ cho các nhiệm vụ chính trị, như đưa ra triển lãm ở nước ngoài, làm quà tặng ngoại giao, trang trí khánh tiết. Họa sĩ Nguyễn Xuân Tiệp, người cũng có hơn 30 năm công tác ở bộ phận nghiên cứu - sưu tầm của BTMTVN, thẳng thắn cho biết: Năm 2006, anh nhận được “lệnh” sao chép bức Trong vườn (có tên khác là Dọc mùng, sáng tác năm 1939) của danh họa Nguyễn Gia Trí (1908 - 1993) để trưng bày tại Trung tâm Hội nghị quốc gia. Bản gốc tranh này hiện trưng bày tại BTMTVN. Về sau, bức tranh này tiếp tục được phóng lớn để trưng bày tại tòa nhà Quốc hội mới và “còn ít nhất là ba phiên bản khác của Trong vườn được trưng bày ở nhà của một số vị có chức sắc” - họa sĩ Nguyễn Xuân Tiệp khẳng định.
Từ mục đích ban đầu là để phục vụ nhân dân trong hoàn cảnh chiến tranh, việc sao chép tranh khởi nguồn từ BTMTVN đã dần không còn được kiểm soát, bị biến tướng và bị lợi dụng. Ngày càng có nhiều họa sĩ, nhân viên khác tham gia sao chép, không riêng gì các tác giả chính danh. Một nhà nghiên cứu mỹ thuật cho chúng tôi biết, khi làm Trưởng ban kiểm tra của Hội Mỹ thuật Việt Nam, ông từng nhận được đơn tố cáo về sự thất thoát ở kho tranh phiên bản của Vụ Mỹ thuật (nay là Cục Mỹ thuật - Nhiếp ảnh - Triển lãm, Bộ VHTTDL). Số là cơ quan này cũng chủ trì một số triển lãm mỹ thuật Việt Nam ở nước ngoài, và thường, tranh mang đi là bản sao sáng tác của một số danh họa.
Ngoài ra, tình trạng sao chép tranh còn rất phổ biến trong chính giới sáng tác, nhất là trong thời bao cấp và kinh tế còn nhiều khó khăn. Một họa sĩ có thể tự cho phép mình hoặc người khác, thường là thành viên thân cận trong gia đình, chép lại tranh của mình thành không phải một mà nhiều bản, với những lý do rất hồn nhiên, tình cảm mà không hiểu rằng, theo thời gian và sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội, rất có thể một lúc nào đó, bản gốc và bản chép bị lẫn lộn với nhau, kết cục là tất cả đều thành tranh giả. Nhà sưu tầm Nguyễn Mạnh Phúc xác nhận: “Về nguyên tắc, có quyền phiên bản nhưng giá trị tiền phải khác bản gốc. Ở đây, có sự lẫn lộn giữa phiên bản và nguyên bản. Ngay các họa sĩ trước kia cũng lầm lẫn khái niệm này. Thí dụ, trong những năm 1990, tôi thích tranh Linh Chi, và có một sưu tập 10 bức của ông. Nhưng sau, tôi thấy ông cứ vẽ đi vẽ lại. Hỏi thì ông bảo tác giả chép chứ ai đâu (!)”.
Và thế giới ngầm buôn đồ cổ
Cho đến nay, có hai bộ sưu tập tranh thời Mỹ thuật Đông Dương được chính người Việt Nam đưa về giới thiệu với công chúng trong nước. Người đầu tiên là ông Nguyễn Minh, một người buôn đồ cổ ở Hà Nội, với triển lãm Hội họa Việt Nam - một diện mạo khác, tháng 10 - 2015, tại BTMTVN, trưng bày 50 tác phẩm trong đó chủ yếu là tranh của các họa sĩ thời Mỹ thuật Đông Dương như Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Lê Thị Lựu, Phạm Hậu. Tranh của họ được giới thiệu là mua từ hai nhà đấu giá danh tiếng thế giới Sotheby’s và Christie’s. Kèm theo triển lãm này là một cuốn sách đồ sộ, có phần song ngữ Việt - Anh, do nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng thực hiện. Người thứ hai là ông Vũ Xuân Chung, cũng là một người buôn đồ cổ, với triển lãm ồn ào Những bức tranh trở về từ châu Âu tại BTMTTPHCM vừa qua. Nhưng họ không phải là người khởi sự cho việc này ở Việt Nam. Nhân vật khởi sự là ông Tira Vanichtheeranot, một người Thái-lan, buôn đồ cổ có hạng.
nếu vụ việc của ông Vũ Xuân Chung không bị phát giác thì sẽ có ngày càng nhiều người buôn đồ cổ lao vào công việc mua bán tranh thời Mỹ thuật Đông Dương và họ sẽ chủ yếu là mua “bằng tai và bằng lợi nhuận” rồi tìm mọi cách để đẩy giá tranh lên. |
Tháng 10 - 2011, ông tổ chức triển lãm đầu tiên ở Việt Nam, giới thiệu bộ sưu tập tranh mang tên mình, tại BTMTTPHCM, có tranh của nhiều danh họa thời Mỹ thuật Đông Dương như Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Phạm Hậu, Nguyễn Đỗ Cung,… Kèm theo triển lãm là cuốn sách dày dặn giới thiệu bộ sưu tập do họa sĩ Phan Cẩm Thượng thực hiện. Nhưng ngay trong triển lãm này đã xảy ra hai sự cố: thứ nhất là bức tranh Phố Hàng Bạc, được giới thiệu là của họa sĩ Bùi Xuân Phái song có chữ ký hệt như của con trai danh họa, anh Bùi Thanh Phương. Về sau, chính anh Phương lên tiếng trên dư luận rằng đó là tranh của mình, đề nghị thành viên Ban tổ chức triển lãm đính chính. Việc thứ hai là bức tranh Nông thôn cũng của Bùi Xuân Phái được phát hiện có thêm bản khác, do anh Phương mang sang triển lãm tại Hàn Quốc năm 2006. Hai bức tranh này giống nhau về bố cục, hình ảnh tổng thể, song khác nhau về nhiều chi tiết, nhất là các mảng màu. Nhưng sự việc này sau đó cũng chìm xuống. Ngược lại, ông Tira, dần được truyền thông trong nước nhắc đến rất nhiều như một người nước ngoài tha thiết yêu hội họa Việt Nam. Ông liên tục cho ra mắt các sưu tập tranh, ký họa của một số họa sĩ danh tiếng theo đúng mô hình như ban đầu: triển lãm tại BTMTVN hoặc Đại học Mỹ thuật Việt Nam, ra sách do Phan Cẩm Thượng làm, truyền thông rộng rãi trong nước. Ông Nguyễn Minh, bạn thân của ông Tira, rồi Vũ Xuân Chung, cũng đi theo đúng cách thức này, tuy mức độ có thể khác nhau. Những sự trùng hợp như vậy liệu có thể chỉ là ngẫu nhiên? Họa sĩ Bùi Mai Hiên, một người từng là thành viên trong Ban chấp hành của Hội đồ cổ Hà Nội khẳng định, nếu vụ việc của ông Vũ Xuân Chung không bị phát giác thì sẽ có ngày càng nhiều người buôn đồ cổ lao vào công việc mua bán tranh thời Mỹ thuật Đông Dương và họ sẽ chủ yếu là mua “bằng tai và bằng lợi nhuận” rồi tìm mọi cách để đẩy giá tranh lên.
Nhìn rộng ra, tranh thật - giả không là vấn nạn của riêng mỹ thuật Việt Nam, mà là của chung trên toàn thế giới. Tuy nhiên, ở nhiều nước, công cụ pháp chế của họ chặt chẽ và mạnh mẽ nên khiến giới làm tranh giả e dè hơn do chịu cảm giác phạm tội. Còn ở Việt Nam, điểm khác biệt lớn nhất có lẽ là sự tồn tại mặc nhiên của vấn nạn này trong một thị trường buôn bán tác phẩm mỹ thuật tự phát, chưa có sự quản lý chặt chẽ của cơ quan chức năng. Vì vậy, những người tham gia vào những “đường dây” làm, buôn bán tranh giả không có cảm giác e ngại là đang làm việc phạm pháp, thậm chí họ còn dễ dàng tìm cách hợp thức tranh giả thành tranh thật có giá trị thông qua nhiều kênh truyền thông khác nhau.