Tạo động lực mới cho tăng trưởng kinh tế

Động lực kinh tế đang có xu hướng giảm khi tình hình kinh tế thế giới vẫn căng thẳng. Báo cáo sáu tháng đầu năm và triển vọng cuối năm của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) - Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho thấy, tăng trưởng kinh tế sáu tháng đầu năm chỉ đạt 3,32%. Với thực tế này, CIEM đưa ra ba kịch bản tăng trưởng đều thấp hơn mục tiêu tăng trưởng 6,5% mà Quốc hội và Chính phủ đề ra cho cả năm 2023.
0:00 / 0:00
0:00
Các doanh nghiệp đang đối mặt nhiều khó khăn trong sản xuất, kinh doanh. Ảnh: NGUYỄN HẢI
Các doanh nghiệp đang đối mặt nhiều khó khăn trong sản xuất, kinh doanh. Ảnh: NGUYỄN HẢI

Ba kịch bản tăng trưởng

Kịch bản 1 (thấp nhất): Tăng trưởng GDP dự báo đạt 5,34% nếu giả thiết các yếu tố kinh tế thế giới tiếp tục duy trì phù hợp với đánh giá của các tổ chức quốc tế và Việt Nam duy trì nỗ lực chính sách tương tự như nửa cuối các năm 2021-2022.

Kịch bản 2: Tăng trưởng GDP dự báo ở mức 5,72%, nếu giữ nguyên hầu hết các giả thiết trong kịch bản 1, song có một số điều chỉnh về nới lỏng tiền tệ và tài khóa tích cực hơn ở Việt Nam.

Kịch bản 3 (cao nhất): Tăng trưởng GDP dự báo ở mức 6,46%, nếu giải ngân/hấp thụ đầu tư công và tín dụng đạt kết quả tối đa, môi trường kinh doanh và năng suất lao động được cải thiện. Giả thiết này đòi hỏi bối cảnh kinh tế thế giới chuyển biến tích cực hơn và Việt Nam phải có sự quyết liệt trong cải cách và điều hành.

TS Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng CIEM đánh giá, các động lực tăng trưởng đang đi lùi đáng kể. Ông nói: “Tăng trưởng xuất nhập khẩu chưa bao giờ xuống số âm, thấp như hiện nay. Ngay cả thời kỳ khủng hoảng 2008-2009, xuất nhập khẩu vẫn tăng trưởng hai con số. Sản xuất công nghiệp cũng giảm mạnh. Xét về doanh nghiệp, tâm thế đầu tư đang rất bi quan”.

Bức tranh tình hình sản xuất, kinh doanh

Nguyên Tổng cục trưởng Thống kê Nguyễn Bích Lâm cho rằng, doanh nghiệp nước ta đang trong tình cảnh kinh doanh đầy khắc nghiệt. Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) ngành sản xuất Việt Nam đã giảm xuống 45,3 điểm trong tháng 5/2023 so với 46,7 điểm trong tháng 4. Chỉ số PMI tháng 5 phản ánh sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới giảm mạnh hơn; việc làm cùng với hoạt động mua hàng và niềm tin kinh doanh tiếp tục giảm. Đặc biệt, số lượng đơn đặt hàng mới giảm nhanh, với mức giảm lớn nhất trong 20 tháng qua; số lượng đơn hàng mới từ nước ngoài giảm tháng thứ ba liên tiếp.

Giám đốc Kinh tế tại S&P Global Market Intelligence, ông Andrew Harker nhận định: Số lượng đơn đặt hàng mới giảm mạnh trong tháng 5 là nguyên nhân dẫn đến lo ngại ngành sản xuất của Việt Nam có thể trải qua thời kỳ suy giảm kéo dài chứ không phải chỉ là một giai đoạn giảm tạm thời”, ông Lâm dẫn chứng.

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ số sản xuất công nghiệp quý II/2023 của ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước. Đây là một trong những nguyên nhân giải thích GDP sáu tháng đầu năm 2023 ở mức tăng thấp nhất của giai đoạn 2016-2023.

Ông Lâm nhận xét, những con số đã chỉ rõ doanh nghiệp đang đương đầu với hàng loạt khó khăn.

Đầu tiên, là tình trạng sụt giảm đơn hàng do tổng cầu thế giới và trong nước suy yếu. Hai là, doanh nghiệp đang cạn kiệt và khó tiếp cận nguồn vốn. Ba là, niềm tin của doanh nghiệp và người tiêu dùng sụt giảm khi một bộ phận cán bộ, công chức trong cơ quan nhà nước ở các cấp chậm trễ trong thực thi công việc, mỗi nơi thực thi một kiểu. Có những quy định, chính sách, khung pháp lý không có tính khả thi, chẳng hạn như quy định về phòng cháy, chữa cháy đã cản trở hoạt động của doanh nghiệp; văn bản pháp luật thiếu rõ ràng, khó thực thi đã ảnh hưởng khá nhiều tới niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp vào môi trường kinh doanh. Bốn là, thủ tục hành chính và lo ngại bị hình sự hóa trong hoạt động kinh tế; sự hỗ trợ của chính quyền địa phương kém hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.

“Bức tranh doanh nghiệp gia nhập và rút khỏi thị trường trong sáu tháng đầu năm 2023 là minh chứng rõ nét, phản ánh khá đầy đủ những khó khăn, sự khắc nghiệt mà cộng đồng doanh nghiệp đang đối mặt”, ông Lâm nói và cho biết, trong sáu tháng đầu năm 2023 có 113.550 doanh nghiệp gia nhập thị trường, gấp 1,13 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường, cứ 11 doanh nghiệp gia nhập thì cũng có 10 doanh nghiệp rút khỏi thị trường. Trong khi đó, nhìn lại sáu tháng đầu năm 2019 - năm trước khi xảy ra đại dịch, số doanh nghiệp gia nhập thị trường (doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động) gấp 1,74 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường (doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, doanh nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể). Thậm chí, sáu tháng đầu năm 2020 - năm xảy ra đại dịch, nhưng số doanh nghiệp gia nhập thị trường vẫn gấp 1,54 lần số doanh nghiệp rút khỏi thị trường…

Tạo động lực mới cho tăng trưởng kinh tế ảnh 1

Tạo điều kiện để doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận được nguồn vốn. Ảnh: BẮC SƠN

Linh hoạt và khẩn trương

Với thực tế hiện nay, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã trình Chính phủ dự thảo nghị quyết tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính. Theo đó, có 5 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm. Các giải pháp tập trung vào thúc đẩy tiêu dùng trong nước, đẩy mạnh xuất khẩu, tập trung tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy đầu tư, thu hút vốn FDI và đẩy mạnh giải ngân đầu tư công, hỗ trợ dòng tiền, giảm chi phí và tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp, người dân.

Kiến nghị giải pháp cụ thể, theo TS Nguyễn Bích Lâm, đã đến lúc chúng ta phải thực hiện linh hoạt và khẩn trương cùng lúc nhiều giải pháp. Và nhiều bộ, ngành cần vào cuộc đồng thời để “cứu” kinh tế những tháng cuối năm. Theo ông, nhiệm vụ khơi thông nguồn vốn tạo thanh khoản cho doanh nghiệp không thể chậm trễ. Chính phủ cần tiếp tục thực hiện đồng bộ, nhất quán chính sách tài khóa và tiền tệ, trong đó chính sách tài khóa là trọng tâm vì hiệu quả tức thời của loại chính sách này. Chính sách tiền tệ có độ trễ và hoạt động của ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt. Để có thể hưởng lợi từ chính sách tiền tệ, doanh nghiệp phải đáp ứng một số điều kiện bắt buộc, tuy vậy, những điều kiện này không dễ đáp ứng trong bối cảnh hiện nay. Do vậy, cần tính toán lại các điều kiện để doanh nghiệp khẩn trương tiếp cận được nguồn vốn.

Bên cạnh đó, Chính phủ cần có cơ chế đặc biệt để sớm hoàn thuế cho doanh nghiệp như cho phép doanh nghiệp được hoàn thuế trong vòng ba tháng sau khi xuất khẩu đơn hàng; nghiên cứu, giảm có thời hạn mức thuế thu nhập doanh nghiệp với các đơn vị xuất khẩu; đồng thời nghiên cứu sớm hoàn thuế VAT. Những giải pháp này nếu được thực hiện sẽ giải phóng lượng vốn bị đọng cho doanh nghiệp.

Mặt khác, Chính phủ cần có chính sách tín dụng phù hợp với đặc điểm sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của từng ngành, từng lĩnh vực. Cần xác định các ngành, lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu chủ lực của nền kinh tế, các doanh nghiệp đã khẳng định thương hiệu để có gói tín dụng ưu đãi.

Chẳng hạn, đối với ngành thủy sản cần có gói tín dụng cho nuôi trồng thủy sản và mua dự trữ nguyên liệu để chế biến xuất khẩu trong sáu tháng cuối năm và quý I/2024. “Những gói tín dụng này rất cần thiết nhằm ứng phó với tình trạng hiện nay doanh nghiệp không có đơn hàng xuất khẩu, nhưng để có và thực hiện được đơn hàng xuất khẩu trong thời gian tới cần có vốn ưu đãi khiến người nuôi trồng thủy sản yên tâm tiếp tục thả nuôi, cung cấp đủ nguyên liệu cho doanh nghiệp chế biến xuất khẩu”, ông Lâm nói.

Với ngành dệt may cần ưu đãi tín dụng để mua nguyên vật liệu, trả lương người lao động giống như gói vay ưu đãi 0% trả lương do Ngân hàng Chính sách xã hội đã thực hiện trong giai đoạn đại dịch.

Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cần nghiên cứu duy trì chính sách miễn, giảm, gia hạn nộp thuế, tiền thuê đất; miễn, giảm các loại phí, lệ phí. Cần có các giải pháp hỗ trợ liên quan đến chính sách về các khoản đóng góp bắt buộc của doanh nghiệp đối với người lao động, nhưng cần bảo đảm quyền lợi của người lao động như mức đóng vào Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp; giảm mức đóng kinh phí công đoàn.

Ngoài ra, trong bối cảnh khó khăn, cần hạn chế kiểm tra, thanh tra gây khó khăn cho doanh nghiệp; không ban hành thêm văn bản mới gây gánh nặng về thuế, phí, thủ tục hành chính cho doanh nghiệp. Các cơ quan chức năng sớm hoàn thành điều tra các vụ án hiện tại và đưa ra nghị quyết không hình sự hóa các quan hệ kinh tế.

Đặc biệt, Bộ Công thương cần tăng cường và khẩn trương đàm phán thương mại, đa dạng hóa thị trường đầu vào và đầu ra để giảm phụ thuộc vào các thị trường truyền thống. Minh bạch, đơn giản hóa quy trình thương mại; khuyến khích và đẩy mạnh chia sẻ thông tin về thương mại và giá cả; giữ vững năng lực cạnh tranh và thị phần của hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới. Các cơ quan chức năng cần nâng cao năng lực dự báo về xu hướng kinh tế, cập nhật các ưu đãi phát triển và cảnh báo rủi ro.

Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cần khẩn trương nghiên cứu xu hướng chuyển đổi nhu cầu lao động của thế giới và khu vực; xác định ngành, lĩnh vực ưu tiên phát triển trong những năm tới của toàn nền kinh tế, từng vùng, miền và địa phương; đào tạo nâng cao trình độ và kỹ năng của lao động nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bằng cách nâng cao năng suất lao động…