Xu thế carbon xanh dương

Vài năm trở lại đây, bên cạnh tín chỉ carbon rừng cạn, nhiều nhà đầu tư đã chuyển hướng sang tín chỉ carbon xanh dương - loại carbon hấp thụ từ các hệ sinh thái biển.
Ban Quản lý và bảo vệ rừng phòng hộ biển Tây (Cà Mau) ra quân trồng rừng. Ảnh: Phương Bằng
Ban Quản lý và bảo vệ rừng phòng hộ biển Tây (Cà Mau) ra quân trồng rừng. Ảnh: Phương Bằng

Người dân trực tiếp tham gia đo lường

Từ một khái niệm khá mơ hồ, đến nay, tín chỉ carbon đã không còn xa lạ với người dân ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng. Thậm chí, rất nhiều người đã biết đo lường carbon rừng ngập mặn, nhiệt tình tham gia trồng cây mắm để mang lại lợi ích cho quê hương.

Chị Lê Thị Nữ, thành viên Tổ bảo vệ rừng ấp Trà Sết (xã Vĩnh Hải, thị xã Vĩnh Châu) chia sẻ: Khi mới bắt đầu đo tín chỉ, mọi người trong ấp đều ngần ngại, nghĩ rằng rất khó. Với nhiều người, carbon rừng vẫn là điều gì đó rất mông lung. Nhưng sau năm lần tham gia cùng các chuyên gia của Viện Sinh thái rừng và Môi trường thuộc Trường đại học Lâm nghiệp, cán bộ kiểm lâm thị xã Vĩnh Châu, giờ đây, tôi và nhiều người dân đã thành thạo đo đếm carbon.

Theo chị Nữ, mỗi lần đo đạc, các thành viên trong Tổ bảo vệ rừng đều thấy phấn khởi vì nghĩ việc làm này có nhiều ý nghĩa, nhất là nay chị có thể hướng dẫn các thành viên khác về cách giám sát carbon rừng, hay cách đo tốc độ sinh trưởng của cây rừng. Điều đáng mừng là cộng đồng có thể tự đo đếm sinh khối, đưa ra được hệ số quy đổi sinh khối tươi sang sinh khối khô của ba loài cây bần, mắm, đước bằng các phương pháp khoa học tin cậy.

Theo ông Trần Trí Vân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã Vĩnh Châu, Trưởng ban quản lý Dự án tại Vĩnh Châu, thị xã Vĩnh Châu có 43 km bờ biển và 4.000 ha rừng ngập mặn. Người dân đều đã hiểu vai trò quan trọng của hệ thống rừng phòng hộ trong đời sống, sản xuất. Rừng phòng hộ sẽ góp phần làm giảm các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu, hạn chế việc xói lở, sạt lở bờ biển, triều cường... Ngoài ra, còn góp phần điều tiết được thời tiết địa phương.

Kết quả nghiên cứu do Viện Sinh thái rừng và Môi trường phối hợp với Quỹ Hỗ trợ chương trình, dự án an sinh xã hội Việt Nam (AFV), ActionAid Quốc tế tại Việt Nam thực hiện tại thị xã Vĩnh Châu trong hai năm (11/2022-10/2024) cho thấy: Lượng tăng trưởng carbon bình quân hằng năm của cây mắm cao nhất, với 8,06 tấn/ha, trong khi cây bần là 6,93 tấn/ha và cây đước là 5,32 tấn/ha. Trung bình tăng trưởng toàn khu vực là 6,77 tấn/ha/năm (tương đương 24,8 tấn CO2/ha/năm) với giá trị kinh tế từ rừng có thể đem lại hằng năm từ 5-10 USD/tấn CO2/ha (tương đương 124 - 248 USD/ha/năm).

GS, TS Phạm Văn Điển, Hiệu trưởng Trường đại học Lâm nghiệp thông tin, hiện nay có 177 tiêu chuẩn carbon trên thế giới để làm chuẩn mực trong trao đổi mua bán. Trong đó, carbon rừng ngập mặn còn được gọi là carbon xanh dương, là một trong những loại đem ra thị trường có giá trị cao nhất. Với phương pháp đo tăng trưởng carbon của nghiên cứu trên đã được Cục Lâm nghiệp (nay là Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm) thẩm định và sử dụng để ban hành Sổ tay hướng dẫn kỹ thuật điều tra, đo đếm carbon rừng ngập mặn, tại Quyết định số 316/QĐ-LN-SXLN ngày 29/10/2024.

Đây là lần đầu tiên một hướng dẫn chuyên ngành trong lĩnh vực này được ban hành và áp dụng trên phạm vi toàn quốc. “Việc đo lường, xác định carbon rừng ngập mặn rất cần thiết, góp phần thực hiện Net Zero, giảm phát thải khí nhà kính”, GS Điển nhấn mạnh.

Đầu tư tạo nguồn tín chỉ carbon xanh dương

Theo ông Trần Quang Bảo, Cục trưởng Lâm nghiệp và Kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, Cục đang xây dựng hệ thống dữ liệu rừng ngập mặn ở 28 tỉnh, thành phố ven biển và hệ thống chính quyền các cấp sẽ cập nhật biến động diện tích rừng giảm hằng năm. Hoạt động có sự tham gia của chủ rừng trực tiếp, đặc biệt là người dân giữ rừng, các cộng đồng, hợp tác xã.

“Thông qua phương pháp này có thể đo đếm tính toán, xây dựng bản đồ trữ lượng carbon rừng ngập mặn toàn quốc, lượng hóa được tổng giá trị mà carbon đang lưu giữ và tăng trưởng hấp thụ CO2 hằng năm. Qua đó, xác định được tiềm năng giá trị môi trường của rừng ngập mặn”, ông Bảo cho biết. Tuy nhiên, rừng ngập mặn hiện nay đang gặp nhiều thách thức.

Theo các chuyên gia hệ sinh thái, tín chỉ carbon xanh dương gồm carbon hấp thụ từ rừng ngập mặn, đầm lầy ven biển, bãi triều và cỏ biển, có tiềm năng lưu trữ tự nhiên tạo ra một lượng lớn khí carbon. Việt Nam nằm trong nhóm quốc gia dẫn đầu thế giới về rừng ngập mặn, với diện tích khoảng 200.000 ha.

Theo PGS, TS Viên Ngọc Nam, Trường đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, hiện tượng biến đổi khí hậu, nước biển dâng làm cho nhiều diện tích rừng bị ngập sâu, biển đang có xu hướng tiến sâu vào lục địa dẫn đến tình trạng hệ sinh thái ở những khu vực này thay đổi như: giảm diện tích rừng, suy giảm đa dạng loài thực vật. Ngoài ra, hiện tượng sạt lở, nhiễm mặn, cùng các hoạt động từ thượng nguồn sông Mê Công như xây dựng các đập thủy điện, ngăn dòng... đã tác động mạnh mẽ đến hệ thống rừng ngập mặn.

PGS, TS Viên Ngọc Nam gợi ý, vấn đề trước mắt là cần quản lý rừng bền vững, tiếp đến nâng cao tuyên truyền cho người dân về tín chỉ carbon. Trong tương lai, nơi nào có khả năng trồng rừng nên tích cực trồng rừng để gia tăng lượng tín chỉ carbon, đa dạng sinh học, đặc biệt là tìm ra những giải pháp nhằm hạn chế việc sạt lở. Ngoài ra, tăng cường các hoạt động bảo tồn và quản lý bảo vệ, lưu giữ hệ sinh thái rừng ngập mặn không bị suy thoái, phá hủy hoặc mất rừng; phục hồi hệ sinh thái rừng ngập mặn đã bị suy thoái, phá hủy… cũng tạo ra nguồn tín chỉ carbon xanh dương.

Về phía cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương cần sớm có chính sách giao đất, giao rừng cho các cộng đồng, cá nhân quản lý, sử dụng ổn định lâu dài. Và cần tiếp tục mở rộng quy mô diện tích rừng ngập mặn bằng cây mắm - loại cây phù hợp điều kiện lập địa, độ mặn của nước biển và phù hợp đời sống của người dân nhiều địa phương vùng biển.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.