Vì mục tiêu tăng trưởng bền vững

Tự chủ nguồn cung nguyên liệu và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu là những điều kiện tiên quyết để hàng hóa "Made in Vietnam" mở rộng thị phần tại các thị trường lớn.
Tập đoàn Dệt may Việt Nam đã chủ động xây dựng một chuỗi cung ứng khép kín từ “sợi - dệt - nhuộm - may mặc”. Nguồn: VINATEX
Tập đoàn Dệt may Việt Nam đã chủ động xây dựng một chuỗi cung ứng khép kín từ “sợi - dệt - nhuộm - may mặc”. Nguồn: VINATEX

Theo số liệu của cơ quan Thống kê, những năm qua, tỷ trọng nhập khẩu nguyên phụ liệu của Việt Nam đều tăng trưởng so cùng kỳ.

Rủi ro lớn từ sự phụ thuộc

Đối với ngành dệt may, thông thường tháng 10, 11 hằng năm là thời điểm doanh nghiệp phải đẩy mạnh nhập khẩu nguyên phụ liệu căn cứ trên đơn hàng ký cho năm tiếp theo. Theo số liệu thống kê trong 11 tháng của năm 2024, tổng giá trị nhập khẩu nguyên phụ liệu dệt may đã đạt 25,2 tỷ USD, tăng 14,9% so cùng kỳ năm 2023.

Trong khi hầu hết các nước tham gia hiệp định thương mại tự do (FTA) đều áp dụng quy tắc yarn-forward (yêu cầu tỷ trọng nội địa từ nguyên liệu sợi trở đi), thì nguồn cung vải trong nước chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu của các doanh nghiệp ngành dệt may. Đây chính là một rào cản đối với hàng dệt may của Việt Nam. Thêm vào đó, giới chuyên gia còn cảnh báo, chúng ta có thể đối diện nguy cơ bị áp thuế lên các mặt hàng có nguồn nhập khẩu từ nước thứ ba, kể cả chỉ là nhập khẩu nguyên liệu hay thuộc diện hàng hóa “đội lốt”.

Việc này sẽ ảnh hưởng lớn đến sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam khi phải cạnh tranh với chính các đối thủ lớn như Trung Quốc - quốc gia dẫn đầu về sản xuất sợi và vải, có lợi thế lớn về nguồn lực lao động chi phí thấp, là trung tâm của chuỗi cung ứng toàn cầu. Hay Ấn Độ - nơi tự cung, tự cấp các loại vải, sợi, bông…

Nhìn sang các đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam trong lĩnh vực dệt may tại thị trường Liên minh châu Âu, như: Bangladesh, Campuchia và Indonesia..., có thể thấy doanh nghiệp của họ đều đang nỗ lực nâng cao năng lực cạnh tranh, tích cực chuyển đổi sang mô hình sản xuất dệt may bền vững nhờ có nguồn cung nguyên liệu nội địa ổn định.

Tương tự, với ngành nhựa, vấn đề nan giải nhất trong năm 2025 cũng là… nguồn nguyên liệu. Theo Chủ tịch Hiệp hội Nhựa Việt Nam Đinh Đức Thắng, chỉ riêng năm 2024, Việt Nam đã nhập gần 1,1 triệu tấn hạt nhựa PVC, chủ yếu từ Trung Quốc. Việc nguồn nguyên liệu chỉ đáp ứng được 30% nhu cầu trong nước, còn lại phải nhập khẩu khiến cho chi phí sản xuất của doanh nghiệp ngành nhựa bị đẩy lên cao, suy giảm khả năng cạnh tranh.

Đối với ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi, năm 2024, Việt Nam đã nhập khẩu gần 22,4 triệu tấn nguyên liệu, riêng tấm và gạo (vốn là thế mạnh của Việt Nam) cũng phải nhập khẩu đến… 304 nghìn tấn. Chính việc phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu (trên 65% nguyên liệu thô, trên 90% thức ăn bổ sung) đã tác động tiêu cực đến ngành chăn nuôi trong nước.

Cần minh bạch, chuẩn hóa nguồn gốc xuất xứ

Việc tự chủ nguyên liệu nhằm tối ưu hóa chuỗi cung ứng là điều mà các ngành hàng của Việt Nam cần phải tập trung đầu tư, nhất là trong bối cảnh thương mại toàn cầu năm 2025 chứa đựng nhiều yếu tố bất định.

Thấu hiểu sâu sắc những khó khăn do thiếu ổn định nguồn cung nguyên liệu, Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) đã chủ động xây dựng một chuỗi cung ứng khép kín từ “sợi - dệt - nhuộm - may mặc”. Không giấu được tự hào khi nói về vấn đề này, ông Nguyễn Đức Trị, Phó Tổng Giám đốc Vinatex chia sẻ, đây là yếu tố then chốt giúp các doanh nghiệp của Vinatex giảm phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu.

Về phía ngành nhựa, ông Đinh Đức Thắng cho biết, xu hướng phát triển chuỗi cung ứng nội địa, hướng tới tự chủ nguyên liệu nhựa nguyên sinh và xây dựng hệ thống tái chế kết hợp phân loại rác thải tại nguồn đang được nhiều doanh nghiệp thực hiện khá bài bản, minh bạch.

Đánh giá cao sự chủ động của các doanh nghiệp, hiệp hội trong việc đầu tư vào sản xuất bền vững hơn, song bà Trịnh Thị Thu Hiền, Phó Cục trưởng Xuất nhập khẩu (Bộ Công thương) vẫn lưu ý, không chỉ từng bước tự chủ nguồn cung nguyên liệu, các doanh nghiệp xuất khẩu cần phải tuân thủ tốt các quy định và minh bạch hóa công nghệ bảo quản, sản xuất.

Ở góc nhìn khác, PGS, TS Ngô Trí Long - nguyên Viện trưởng Nghiên cứu thị trường giá cả (Bộ Tài chính) cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, các cơ quan chức năng cần rà soát kỹ nguồn gốc xuất xứ hàng hóa Việt Nam, tránh rủi ro khi bị cảnh báo về nguy cơ chuyển tải hàng hóa bất hợp pháp nhằm né thuế, dẫn đến các biện pháp kiểm soát gắt gao hơn.

Về vấn đề này, bà Hiền cho biết, đối với nhóm hàng thuộc danh mục cảnh báo, có nguy cơ gian lận xuất xứ, các cơ quan, tổ chức cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) đã tăng cường kiểm tra trước khi xem xét cấp giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa ưu đãi hoặc hậu kiểm, xác minh xuất xứ hàng hóa và luôn chủ động phối hợp cơ quan có thẩm quyền của nước nhập khẩu khi có yêu cầu xác minh nhằm phát hiện lô hàng “mượn” xuất xứ Việt Nam. Hiện, hoạt động sử dụng C/O của doanh nghiệp Việt Nam đã có chuyển biến tích cực.

Động lực hoàn thiện chuỗi cung ứng

Nếu chuỗi cung ứng nguyên liệu nhập khẩu quá phụ thuộc vào một nhà cung ứng, doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp rủi ro lớn hơn khi có biến động thuế quan. Theo TS Nguyễn Mạnh Hùng - chuyên gia về quản lý chuỗi cung ứng và logistics, các doanh nghiệp nên xác định nguy cơ về biến động thuế quan cũng chính là động lực để tăng cường khả năng truy xuất nguồn gốc trong chuỗi cung ứng.

Các thị trường nhập khẩu lớn như Mỹ, EU sẽ giám sát chặt chẽ hơn đối với hoạt động trung chuyển, hay hàng hóa được đóng gói, dán nhãn lại tại Việt Nam với mục đích tránh thuế. Để tránh khỏi nguy cơ Việt Nam trở thành “trạm trung chuyển” cho khâu đóng gói đơn giản, các doanh nghiệp cần có chiến lược phù hợp nhằm thiết lập lại chuỗi cung ứng sản xuất.

Còn theo TS Lê Quốc Phương, nguyên Phó Giám đốc Trung tâm thông tin Công nghiệp và Thương mại (Bộ Công thương), với kim ngạch xuất nhập khẩu 786,29 tỷ USD, Việt Nam đã được xếp vào nhóm cường quốc về xuất khẩu, nên phải có cách ứng xử tương xứng vai trò này. Đơn cử, Việt Nam cần nỗ lực đáp ứng được các yêu cầu về hàng rào bảo vệ hàng hóa trong nước từ các quốc gia một cách chuẩn mực, minh bạch.

Xuất phát điểm, các tiêu chuẩn khắt khe như "tiêu chuẩn xanh" có thể "làm khó" doanh nghiệp xuất khẩu, song về lâu dài việc nâng cao chất lượng sản xuất sẽ mở ra cơ hội tăng trưởng một cách bền vững, không chỉ cho từng doanh nghiệp mà còn cho toàn bộ hoạt động xuất khẩu của Việt Nam nói chung.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.  

Lê Anh Vân, Chiến lũy, sơn dầu, 100 x 129,5cm, 1984. trong Sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Chủ động thay đổi để phát triển

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số nhà giáo, nghệ sĩ, nhà sưu tập trong và ngoài nước về sự chuyển dịch của vị thế mỹ thuật Việt Nam trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt Nam nói riêng, trên bình diện quốc tế nói chung. 

Tô Ngọc Vân, Hai thiếu nữ và em bé, sơn dầu, 100,2 x 75cm, sáng tác năm 1944, trong danh mục Bảo vật quốc gia, thuộc sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.

Những cơn sóng trào của khát vọng sáng tạo

Việc thành lập và nhanh chóng đi vào hoạt động của Trường Mỹ thuật Đông Dương đã góp phần quan trọng tạo nên bước ngoặt nhận thức của một lớp người Việt Nam về tính cá nhân và giá trị của sáng tạo cá nhân trong xã hội.

Triển lãm các bài nghiên cứu hình hoạ của nhiều thế hệ sinh viên nhà trường, tháng 9/2025, thu hút sự quan tâm của đông đảo giới chuyên môn. Ảnh: Mai Loan

Dưỡng chất cho mầm xanh nghệ thuật

Suốt hành trình 100 năm qua, Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tiền thân là Trường Mỹ thuật Đông Dương, dù trải qua nhiều biến động lịch sử lớn lao nhưng luôn giữ vững mục tiêu đào tạo nghệ sĩ-người sáng tạo trong lĩnh vực mỹ thuật.

Đại diện hậu duệ danh hoạ Nguyễn Phan Chánh trao những suất học bổng đầu tiên của Quỹ mang tên ông cho sinh viên Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, tháng 10/2025.

Tự tin vượt qua nhiều giới hạn

Đông Nam Á vốn luôn được xem là một vùng ngoại vi của nghệ thuật đương đại thế giới, cho dù trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày một sâu rộng. Những định chế nghệ thuật lớn vẫn “cư ngụ” ở châu Âu và Bắc Mỹ.