Kỷ niệm 65 năm Chiến thắng Ðiện Biên Phủ (7-5-1954 – 7-5-2019)

Huyền thoại pháo binh

Kỳ 1: Chuyện trong sử sách...

Từ bên quốc lộ 279 (đoạn Km 15 + 500 hướng Ðiện Biên - Tuần Giáo) nhìn sang, cụm tượng đài bộ đội kéo pháo bằng tay (thuộc quần thể di tích quốc gia đặc biệt Chiến dịch Lịch sử Ðiện Biên Phủ) nằm trên một sườn đồi không tên (thuộc địa phận xã Nà Nhạn, huyện Ðiện Biên, tỉnh Ðiện Biên). Chính ngọn đồi "vô danh" này là nơi bắt đầu cho rất nhiều câu chuyện xúc động, về những hành động phi thường của quân đội ta và nhân dân ta ngày cả nước hành quân lên Ðiện Biên Phủ, cả nước dồn sức cho trận quyết chiến chiến lược mang mật danh "Trần Ðình"...

Mô phỏng cảnh tượng bộ đội ta kéo pháo trong Chiến dịch Ðiện Biên Phủ tại Bảo tàng Chiến thắng Lịch sử Ðiện Biên Phủ. Ảnh: Lê Lan
Mô phỏng cảnh tượng bộ đội ta kéo pháo trong Chiến dịch Ðiện Biên Phủ tại Bảo tàng Chiến thắng Lịch sử Ðiện Biên Phủ. Ảnh: Lê Lan

65 năm đã trôi qua kể từ thời khắc tướng Ðờ Cát (Ðờ Ca-xtơ-ri) cùng bộ tham mưu của y kéo cờ trắng ra hàng (chiều 7-5-1954), Chiến thắng Ðiện Biên Phủ vẫn là một đề tài hấp dẫn với các văn nghệ sĩ nói chung và báo chí nói riêng; trong đó, chuyện "kéo pháo vào, kéo pháo ra" với gương hy sinh anh dũng của Anh hùng Tô Vĩnh Diện, dường như lúc nào cũng mới.

Theo các tài liệu lịch sử, ngày 13-1-1954, tại hội nghị bàn kế hoạch tiến công tập đoàn cứ điểm Ðiện Biên Phủ, Bộ chỉ huy chiến dịch nhất trí phương châm "đánh nhanh, thắng nhanh". Ðể giữ bí mật, Bộ chỉ huy quyết định dùng sức người kéo pháo vào trận địa. Bắt đầu từ Nà Nhạn, con đường vượt núi An Tao, vòng lên phía bắc và vươn tới bản Nghịu ở phía tây, có ngọn núi cao đến 1.150 mét so mực nước biển. Do tính chất khẩn trương của tình hình chiến trường, con đường kéo pháo với chiều dài 15 ki-lô-mét được hoàn thành chỉ trong... một ngày (15-1-1954) bằng cuốc, xẻng, xà-beng... bởi các cán bộ, chiến sĩ Ðại đoàn 308 và Trung đoàn công binh 151 (Bộ Quốc phòng). Ðể máy bay địch không phát hiện ra, đường mở tới đâu ngụy trang tới đó, nhiều đoạn các chiến sĩ phải đánh cây ở chỗ khác đem về trồng ven đường. Có đoạn phải dùng cành tre dựng thành giàn, trên phủ lá xanh hoặc buộc cành cây lại với nhau thành "con đường ống", khiến máy bay địch không thể phát hiện được.

Ðể kịp cho ngày "N": (25-1-1954) khai hỏa, cán bộ, chiến sĩ Ðại đoàn 312 và Trung đoàn sơn pháo được giao trong thời gian bảy ngày phải kéo pháo vào chiếm lĩnh trận địa. Trọng lượng mỗi khẩu trên hai tấn, lúc đầu lực lượng kéo chủ yếu là các pháo thủ, khi lên dốc phải thêm 10 rồi 20 người, có con dốc phải tăng cường gần ba tiểu đội cho mỗi khẩu pháo. Ðến ngày thứ ba, thứ tư... một số vị trí công binh phải mở rộng thêm mặt đường và hạ bớt độ dốc. Hậu cần mặt trận cũng tăng thêm định lượng từ 8 lạng lên 1 ki-lô-gam gạo cho một chiến sĩ. Qua chín ngày đêm, rạng sáng 25-1-1954, toàn bộ 24 khẩu pháo đã được đưa vào trận địa một cách an toàn và bảo đảm tuyệt đối các yếu tố bí mật.

Tuy nhiên lúc này, qua công tác trinh sát, ta phát hiện Pháp cũng đã hoàn thành việc tăng cường quân số và vũ khí, phương tiện cho Ðiện Biên Phủ, nhằm biến Ðiện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm "bất khả xâm phạm" với những đơn vị đồn trú tinh nhuệ, khí tài mạnh và hệ thống hầm hào kiên cố. Sau khi nghiên cứu, phân tích, so sánh lực lượng hai bên, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định thay đổi phương châm từ "Ðánh nhanh, thắng nhanh" sang "Ðánh chắc, tiến chắc". Với chủ trương đó, một mệnh lệnh của Bộ chỉ huy chiến dịch ban hành: "... Tất cả lực lượng pháo binh kéo trở lại vị trí tập kết chiến dịch cũ trên đường 41, ngay trong đêm nay, 26-1-1954". Với cán bộ, chiến sĩ lực lượng pháo binh, mệnh lệnh đó đã gây không ít xáo trộn về tâm lý khi đã phải đổ biết bao mồ hôi, công sức mới đưa được pháo vào trận địa, giờ lại phải kéo pháo ra... Nắm bắt tư tưởng chiến sĩ, các chi bộ kịp thời họp để quán triệt việc kéo pháo ra và chập tối 26-1-1954, cuộc vật lộn với đèo cao, vực thẳm, dốc trơn... được lặp lại, chỉ có điều lần này mũi pháo... quay về hậu cứ. Lượt kéo pháo vào trận địa đã rất gian khổ, nhưng không gian khổ bằng lượt kéo pháo ra. Dường như không quân Pháp đã phát hiện thấy hoạt động của ta, nên chúng liên tục cho máy bay trinh sát và sau đó là phản lực oanh tạc.

Ðêm 1-2-1954 là đêm thứ bảy các chiến sĩ thực hiện mệnh lệnh kéo pháo trở ra. Ðỉnh Pha Sông cao hơn 1.100 mét là một trong những đỉnh cao nhất của dãy Pú Pha Sông lừng lững mà bộ đội phải kéo pháo qua, trên đoạn đường từ ngã ba Nà Nhạn vòng qua bản Tấu (bản Tố) tới cánh đồng Na Hí. Anh em gọi vui đây là "Dốc ông Mậu" (đồng chí Phạm Ngọc Mậu, Chính ủy Ðại đoàn công pháo 351). Hồi chiến dịch, một bộ phận nhỏ của Ðại đoàn 351 và Ðại đoàn 312 đóng quân chung trong một thời gian ngắn để hiệp đồng kéo pháo theo kế hoạch "đánh nhanh, thắng nhanh". Sau này, cả hai Ðại đoàn đóng quân gần bản Búng Tôm, xã Nà Nhạn.

Ông Nguyễn Hữu Chấp nguyên là lính pháo binh tham gia trận Ðiện Biên Phủ từ đầu chiến dịch tới ngày quân ta toàn thắng (hiện cư trú tại tổ dân phố 20, phường Him Lam, thành phố Ðiện Biên Phủ, tỉnh Ðiện Biên) nhớ lại: Lượt kéo pháo ra, xuất hiện một tấm gương cứu pháo vô cùng quả cảm, đó là anh Tô Vĩnh Diện, Tiểu đội trưởng pháo cao xạ 37mm thuộc Ðại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367. Ðêm 1-2-1954, đơn vị của Tô Vĩnh Diện kéo pháo ra đến dốc Chuối, mặt đường rất hẹp và nghiêng tới 70 độ. Trời lác đác mưa phùn, rừng núi hoang vu và màn đêm đen đặc, hai bên đường "mốc giới" được xác định bởi những cành củi mục lờ mờ ánh lân tinh. Trung đội trưởng Trần Quốc Chân đi trước dẫn đường, mình mặc áo mưa lộn trái cho mầu trắng ra ngoài làm tín hiệu. Hai người là Tô Vĩnh Diện và pháo thủ Nguyễn Văn Chi trực tiếp lái càng khẩu pháo đầu tiên xuống dốc. Chiến sĩ Ðài và chiến sĩ Ước cầm cục gỗ chèn hai bánh pháo, một người gõ mõ làm hiệu lệnh.

Xuống được nửa dốc, mọi người đang nín thở ghìm sợi dây chão thì bỗng đâu tiếng pháo địch nổ chát chúa, những ánh chớp xanh lẹt làm cả khu rừng bừng sáng. Ðất đá rơi rào rào cùng tiếng cành cây kêu răng rắc bị mảnh pháo phạt gãy. Ðoàn quân kéo pháo đã có người bị thương nhưng tất cả vẫn bám chắc sợi dây, ai cũng hiểu chỉ cần một vài người mất bình tĩnh, lỏng tay thì ngay lập tức khẩu pháo sẽ lao xuống vực. Thêm một loạt bom của địch giội xuống, dây tời chính (ở giữa) bị mảnh bom cắt đứt, hai sợi dây hai bên còn căng hơn cả dây đàn với hàng trăm cánh tay cuồn cuộn đang cố ghìm lại khối thép nặng hơn hai tấn. Vài người ngã còng queo trên sườn dốc, chiến sĩ Chi bị càng pháo hất bay xuống vực. Một mình Tô Vĩnh Diện đang dồn hết sức bình sinh, cố kiểm soát chiếc càng pháo đang quăng quật một cách hung hãn như muốn đập nát bất cứ thứ gì.

Trong lúc nguy biến, Tô Vĩnh Diện hô to: "Anh em, thà hy sinh, quyết bảo vệ pháo!". Rồi, bằng một hành động phi thường, anh chạy thật nhanh lên phía trước lấy thân mình chèn vào bánh pháo. Do một bên bánh bị vướng, khẩu pháo mất thăng bằng, trọng lượng dồn nghiêng vào sườn núi và dừng lại. Khẩu pháo cao xạ 37mm được an toàn, nhưng Tô Vĩnh Diện đã vĩnh viễn ra đi. Trung đội trưởng Trần Quốc Chân ra lệnh kê chèn thật kỹ rồi moi đất gỡ Tô Vĩnh Diện ra, bốn chiến sĩ tức tốc đưa anh về trạm xá tiền phương đóng ở bản Tẩu Pung (xã Nà Nhạn). Nhưng muộn mất rồi, trên cánh tay đồng đội anh trút hơi thở cuối cùng với câu hỏi xé lòng: "Các đồng chí... ơi... pháo có việc gì... không?".

Toàn đơn vị đứng nghiêm một phút mặc niệm người anh hùng, rồi tất cả lại bắt tay vào việc kéo pháo ra trước khi trời sáng để tránh máy bay địch. Khoảng 5 giờ sáng hôm đó (2-2-1954), khẩu pháo được đưa ra vị trí đã định. Ðến ngày 5-2-1954 (mồng 3 Tết Âm lịch Giáp Ngọ), khẩu pháo cuối cùng được kéo về vị trí tập kết an toàn. Tận ngày 7-2-1954 (mồng 5 Tết Âm lịch Giáp Ngọ), các đơn vị mới ăn Tết. Dưới những cơn mưa ngàn, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm và chúc Tết, biểu dương cán bộ, chiến sĩ đã làm tròn nhiệm vụ chuyển pháo vào trận địa rồi lại chuyển pháo ra theo đúng phương châm tác chiến của trên...

Ðược biết khẩu cao xạ 37mm mà Tô Vĩnh Diện lấy thân chèn bánh mang số hiệu 510681, thuộc loại pháo phòng không 37mm một nòng, mẫu 61-K kiểu M1939, do Liên Xô sản xuất và viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong 56 ngày đêm của chiến dịch Ðiện Biên Phủ, khẩu cao xạ đó đã lập thành tích bắn rơi ba máy bay và bắn bị thương 13 chiếc khác. Kết thúc chiến dịch, năm 1958, khẩu pháo được đưa về trưng bày tại Phòng truyền thống của Bộ Tư lệnh Phòng không, nay là Bảo tàng quân chủng Phòng không - Không quân. Ngày 1-10-2012, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 1426/QÐ-TTg, công nhận khẩu pháo cao xạ 37mm số hiệu 510681, là "Bảo vật quốc gia".

Tấm gương hy sinh anh dũng của Tô Vĩnh Diện đã cổ vũ mạnh mẽ toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong chiến dịch "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu". Dịp kỷ niệm hai năm Chiến thắng Ðiện Biên Phủ (7-5-1956), anh được truy tặng Huân chương Quân công hạng Nhì và danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

(Còn nữa)

Có thể bạn quan tâm

Chương trình văn nghệ Kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh tại Quảng trường Ba Đình sáng 2/9/2025.

Vinh quang mãi mãi thuộc về Nhân dân!

Đó là câu cuối trong bài diễn văn súc tích, ý nghĩa của Tổng Bí thư Tô Lâm trên Quảng trường Ba Đình lịch sử tại Lễ kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 vừa qua. Cũng tại nơi đây, lời Quốc ca vang lên cùng những hình ảnh cờ hoa, những gương mặt ngời lên rạng rỡ của vạn người sẽ mãi mãi ghi vào tâm khảm nhân dân.

Nhà báo Hồng Châu, tức Thép Mới (bên phải) và nhà báo Cao Kim, tức Kim Toàn - hai nhà báo của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam từng bí mật hoạt động báo chí tại Sài Gòn - Gia Định trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968.

Nhà báo Kim Toàn - Người truyền cảm hứng

Câu chuyện bắt đầu từ giữa năm 2024, khi Bảo tàng Báo chí Việt Nam “nhận lệnh” của lãnh đạo Hội Nhà báo Việt Nam, chính thức khởi động việc xây dựng kế hoạch hoạt động cho năm 2025 - một năm đặc biệt vì có rất nhiều ngày lễ lớn trọng đại của đất nước.

Cổng đình Phú Gia.

Làng Chăm nghìn tuổi giữa đất Hà thành

Chuyện mà tôi đang kể là về vùng đất Phú Gia, một ngôi làng đặc biệt. Làng nằm cách trung tâm Hà Nội hơn mười cây số về phía tây bắc. Phú Gia xưa tên Nôm là làng Gạ, tục gọi làng Già rồi Bà Già hương; đến thời Minh Mạng là tổng Phú Gia, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, trấn Sơn Tây.

Trung tâm huyện Đạ Huoai, nơi có nhiều người dân Huế lập cư.

Một vùng quê Huế trên đất nam Tây Nguyên

Trong rất nhiều chương trình di dân sau ngày thống nhất đất nước, có câu chuyện về một vùng quê mới của người xứ Huế, được lập ra từ gần nửa thế kỷ trước. Vùng quê ấy xưa gọi là khu kinh tế mới Hương Lâm, nay thuộc xã Đạ Lây, huyện Đạ Huoai-vùng đất phía nam Lâm Đồng…

Hai cán bộ của Ban Binh vận đặc khu Sài Gòn- Gia Định: Ông Lê Quang Đức (người ngồi) và ông Cao Đức Trường (người đứng).

Kỳ 2: Những con đường “không giống ai” của tình yêu đất nước

Khác với hầu hết các lực lượng cách mạng cùng tham gia chiến đấu giành lại hoà bình, độc lập cho dân tộc, những cán bộ làm công tác binh vận phải nhận về mình rất nhiều nguy hiểm, thiệt thòi, khi luôn phải sống “hai mặt”, che giấu thân phận thật sự của mình, trong khi tìm mọi cách để cảm hoá, vận động các đối tượng binh sĩ ngụy quyền trở về với chính nghĩa, với dân tộc…
Sau khi ném bom dinh Độc Lập, phi công Nguyễn Thành Trung đã lái máy bay F5E hạ cánh an toàn xuống sân bay Phước Long. Ảnh tư liệu

Mặt trận “không đánh mà thắng"

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Đánh mà thắng địch là giỏi, không đánh mà thắng càng giỏi hơn. Không đánh mà thắng là nhờ địch vận. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, truyền thống "tâm công" (đánh vào lòng người) của các bậc tiền nhân đã được Đảng Lao động Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới và được quân và dân ta sử dụng như một thứ vũ khí sắc bén để tạo nên sức mạnh tổng hợp, áp đảo, đập tan mọi sự kháng cự của kẻ địch.

Cựu chiến binh Nguyễn Đình Quốc kể về những năm tháng gian lao nhưng vô cùng anh dũng. Ảnh: LƯU XA

Những người kể chuyện hòa bình

Không chỉ kiên cường trong chiến đấu, nhóm cựu chiến binh bị địch bắt tù đày, trở về đời thường vẫn mang tinh thần bất khuất của người lính, không ngại gian khó. Các ông dày công xây dựng Bảo tàng Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày, biến nơi đây thành “địa chỉ đỏ” tri ân các đồng đội đã ngã xuống, đồng thời lan tỏa lòng yêu nước và giá trị của hòa bình cho các thế hệ sau.
Lớp học mầm non ở buôn Ka Ming. (Ảnh: Uông Thái Biểu)

Đất giàu, đất học Ka Ming

Ngày trước buôn Ka Ming thuộc xã Gung Ré, nay là một trong những khu phố của thị trấn Di Linh (huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng). Với 100% dân số là đồng bào dân tộc Cơ Ho thuộc nhánh Srê, buôn làng này thật sự là một vùng đất lành, đất giàu và đặc biệt là đất học nổi tiếng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
Các chiến sĩ lữ đoàn 162 gói bánh chưng chuẩn bị đón Tết.

Đón xuân trên chiến hạm

Đón giao thừa trên chiến hạm không rượu, bia thuốc lá, hồi còi tàu thay cho pháo, nhưng lại có những điều đặc biệt khác mà ít người có thể hình dung ra được…
Làng Nubian trên đảo Elephantine.

Ngôi làng cổ huyền bí giữa dòng sông Nile

Nằm ở phía nam Ai Cập, cách thủ đô Cairo khoảng 800 km, thành phố Aswan bên bờ sông Nile là cửa ngõ của Ai Cập xuống phía nam châu Phi. Đây là nơi sinh sống của người Nubian, một nhóm bộ tộc di cư, đến từ miền bắc Sudan. Điều đó giải thích tại sao họ có tông màu da sẫm hơn người Ai Cập.
Ông Quang Văn Thu (thứ bảy, từ trái sang) và người dân phối hợp tuần tra đường biên, cột mốc cùng chiến sĩ Đồn Biên phòng Thông Thụ (huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An). Ảnh: NGUYỄN ĐẠO

"Cột mốc sống" nơi biên cương xanh thẳm

Nước ta có 4.510 km đường biên giới đất liền trải dài từ bắc tới nam. Chủ quyền quốc gia được xác lập, gìn giữ từ những cột mốc đánh dấu tọa độ và từ chính những bước chân lặng thầm bền bỉ không kể ngày - đêm, mưa - nắng của những người lính biên phòng cùng hàng hàng lớp lớp người dân tình nguyện trở thành những "cột mốc sống".
Đoàn thực hiện nghi lễ chào cờ tại đảo Cồn Cỏ. Nguồn: ĐI ĐỂ HIỂU

Hành trình của lòng tự hào và biết ơn

Bùi Thiên Phú, cậu bé 10 tuổi ở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh vừa có chuyến đi đầu tiên cùng ông ngoại về miền đất lửa Quảng Trị, nơi hơn 50 năm trước ông của cậu từng chiến đấu. Đứng trên cầu Bến Tắt bắc qua vĩ tuyến 17 lịch sử - nơi từng là ranh giới tạm thời chia cắt đất nước, Phú nhìn theo hướng tay ông ngoại chỉ và nghe ông kể: "Ngày ấy, đơn vị ông đóng quân ngay phía bên trái cầu, làm nhiệm vụ bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt"...
Thị trấn Thanh Chương hôm nay. Ảnh: Lê Anh Dũng

Thanh Chương - Miền văn hùng võ lược

Nếu kể đến một vùng quê địa linh nhân kiệt, kiên cường cách mạng và hiếu học, không thể không nói đến Xứ Nghệ. Nói đến Xứ Nghệ, có lẽ không thể không nói đến Thanh Chương.
Nạo vét, khơi thông dòng chảy sông Lừ (Hà Nội). Ảnh: HẢI MIÊN

Kỳ 2: "Cắt ngọn" hay "cải tạo gốc"?

Mặc dù số liệu ghi nhận các trường hợp xả thải sai quy định bị phát hiện, mức độ xử phạt vi phạm ngày càng tăng trong những năm gần đây, nhưng tình trạng ô nhiễm các dòng sông vẫn không được cải thiện đáng kể. Cùng với nỗ lực xử lý "phần ngọn", đã có những mô hình cải tạo "từ gốc" được triển khai.
Không gian hồ sinh thái Na Hang mang một mầu xanh huyền bí.

Vùng thẫm xanh tuyệt sắc

Đặt chân đến bến tàu lòng hồ sinh thái Na Hang (Tuyên Quang), choán ngợp trong tôi là cảm giác yên bình giữa một vùng trong xanh, thấm đến cả năm giác quan. Nơi đây, mỗi người được thảnh thơi thả mình theo tiếng sóng nước, tiếng gió vi vu quyện hòa những âm thanh kỳ diệu của thiên nhiên. Người Na Hang, Lâm Bình đã dựa vào những vẻ đẹp thiên nhiên ban tặng để làm du lịch, gìn giữ văn hóa và từng bước nâng cao đời sống tinh thần của mình.
Lễ đài Ba Đình đầu tiên bằng gỗ ván do KTS Nguyễn Văn Ninh thiết kế. Nguồn: Gia đình Kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh cung cấp.

Kỳ 2: “BÁC Ở THẾ NÀY LÀ QUÁ SANG TRỌNG” (Tiếp theo và hết)

Được sống những khoảnh khắc bên vị lãnh tụ kính yêu của toàn dân tộc, được thiết kế, xây dựng nơi ở và làm việc của Bác là những khoảnh khắc vàng của người kiến trúc sư mà không phải ai cũng vinh dự có được. Nhân cách và trí tuệ vĩ đại, lòng độ lượng, bao dung, nhân hậu, khiêm tốn và giản dị của Người mãi mãi tỏa sáng trong tâm hồn của Nguyễn Văn Ninh; luôn thức dậy trong lòng vị kiến trúc sư niềm khao khát sáng tạo và cống hiến cho dân, cho nước…

Bác Hồ chụp ảnh lưu niệm cùng nhóm thiết kế và thi công nhà sàn của Người. Nguồn: Gia đình cung cấp

Kỳ 1: "Chú lo cho bác một ngôi nhà sàn truyền thống…"

Người Việt Nam nào cũng từng lưu vào trái tim mình hình ảnh ngôi Nhà sàn trong Khu Di tích quốc gia đặc biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch. Ngôi nhà sàn-nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sống và làm việc trong hơn một thập niên cho đến ngày Người mãi mãi về cõi vĩnh hằng đã trở thành một trong những biểu tượng thể hiện cốt cách thanh tao, cao quý của vị Cha già dân tộc. Người thiết kế và chỉ huy thi công nhà sàn là kiến trúc sư Nguyễn Văn Ninh, nhân vật trong câu chuyện mà tôi đang kể…
Bia di tích Trạm hậu cần hỏa tuyến Nà Tấu, sau hai lần chuyển địa điểm.

Tìm lại dấu tích con đường huyền thoại (★)

Nhiều tài liệu viết về Điện Biên Phủ của tác giả nước ngoài đều khẳng định rằng: Công tác bảo đảm hậu cần là một mặt trận hết sức nóng bỏng và quyết liệt với cả hai bên, bởi nó là cầu nối giữa hậu phương với tiền tuyến.
Lắng nghe những hồi ức của cụ Trần Xuất Chúng.

Tìm lại dấu tích con đường huyền thoại

Tròn 70 năm trước, một con đường tiếp vận chiến lược với những điều kiện "không tưởng" đã được những bộ óc thiên tài quân sự của quân đội ta vạch ra, huy động nguồn lực từ nhân dân để làm nên một chiến dịch hậu cần "không thể thực hiện được" như đánh giá của các chiến lược gia của quân đội viễn chinh Pháp. Con đường tiếp vận chiến lược đó đã tạo nên điều kiện quan trọng nhất, cũng là sự bất ngờ lớn nhất, để bộ đội ta có thể chiến đấu và chiến thắng trên chiến trường lịch sử Điện Biên Phủ. Trong những ngày tháng 4 lịch sử này, khi thực hiện hành trình tìm lại những dấu tích của con đường huyền thoại năm xưa, chúng tôi được hiểu rõ hơn về một thời những người dân Việt Nam hào hùng ra trận, hiểu rõ hơn vì sao chúng ta chiến đấu và chiến thắng...
Mốc số 0 cực tây là điểm đến thu hút khách du lịch.

Những người lính viết tiếp huyền thoại nơi cực tây Tổ quốc

Chuyến trở lại Tây Bắc tuần trước, tình cờ tôi gặp lại hai sĩ quan ở Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên, cả hai anh đều từng là Đồn trưởng Đồn Biên phòng A Pa Chải- đồn xa nhất ở cực tây Việt Nam, Đại tá Nguyễn Đức Thắng nay là Trưởng phòng Trinh sát và Trung tá Đặng Tuấn, nay là Chánh Văn phòng Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh. Gần hai mươi năm gắn bó với Tây Bắc, đã đi rất nhiều nơi, gặp gỡ và thân thiết với nhiều bạn bè lính biên, nhưng không hiểu sao cực tây Việt Nam luôn thao thức trong tôi như một nơi chốn "thuộc về".
Với sự cần cù, người dân đã khiến đá trổ xanh. Ảnh: Giang Toan

Khúc tráng ca xứ đá

Đã nhiều lần đến "xứ đá" Hà Giang, song mỗi lần trở lại trong tôi luôn ngập đầy cảm xúc và sự nể phục sức sống mãnh liệt của người dân trước thiên nhiên khắc nghiệt. Nơi đây, đá giăng tứ bề, đá thành rừng thử thách bước chân con người. Cuộc sống vất vả đủ đường nhưng người dân vẫn vươn lên, bám bản, khiến đá nở hoa.
Tác giả bên Bia tưởng niệm Di tích cuộc võ trang vượt ngục ngày 12/12/1952.

Kỳ IV: Ngút trời linh khí (Tiếp theo và hết)

Nơi này là vùng đất thiêng. Mỗi hòn đá cành cây, mỗi đợt sóng dâng trào biển khơi hay sẫm mầu núi biếc Côn Đảo đều có thể kể một câu chuyện về những thời, những người đã qua. Từng tấc đất trên đảo nhỏ giữa trùng khơi đều lưu những dấu tích của lòng uất hận và ý chí ngoan cường của những người Việt vì đại nghĩa Tổ quốc mà có thể hiến dâng cả thân xác vô cùng quý giá của mình.
Nhà Công quán Côn Đảo, nơi nhà soạn nhạc Charles Camille Saint Saens viết chương cuối của vở nhạc kịch "Hoàng hậu Fredegonde".

Kỳ III: Âm nhạc và ngục tù

"Hoàng hậu Fredegonde" là một vở nhạc kịch bất hủ của nhà soạn nhạc thiên tài người Pháp Charles Camille Saint Saens (1835-1921). Ông là một nhạc sĩ thuộc trường phái lãng mạn. Tên tuổi của ông được xếp vào những nghệ sĩ hàng đầu châu Âu theo người đương thời đánh giá và ông là Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp quốc. Vở nhạc kịch và nhà soạn nhạc của quốc gia xa xôi ấy thì có liên quan gì đến Côn Đảo, nơi được mệnh danh là "địa ngục trần gian" giữa trùng khơi Việt Nam?
Chị Trang (bên phải) và chị Xiêm nỗ lực làm tranh cuốn giấy, vừa để kiếm thêm tiền trang trải chi phí, vừa để quên đi phần nào bệnh tật.

Thổi âm thầm những cơn gió mát

Mùa nắng nóng, có lúc cả bầu trời như cái chảo lửa khổng lồ khiến ngay cả những tán cây cũng teo tóp. Thế nhưng vì mưu sinh, không ít người lao động nghèo vẫn phải oằn mình ngoài đường phố Hà Nội, nhiều bệnh nhân chạy thận trú mình trong những căn phòng trọ vài mét vuông. Trong gian khó vẫn luôn có những bàn tay thiện nguyện trao yêu thương, cách con người đối đãi với nhau như cơn gió mát lành tiếp sức cho mỗi phận người.
Du khách tham quan Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ tại Mường Phăng.

Về Mường Phăng nhớ ghé Che Căn

Cái tên Mường Phăng, tỉnh Điện Biên đã đi vào lịch sử và suy nghĩ của nhiều người khi địa danh này là nơi đặt Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Vậy nhưng, nếu đến Mường Phăng thì sẽ biết đến Che Căn. Hiện nay, Mường Phăng nỗ lực biến Che Căn trở thành địa điểm du lịch trọng điểm với lợi thế riêng có là Khu di tích Sở Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ và cảnh quan thiên nhiên độc đáo tại nơi này…
Bé Kiều Oanh và bạn xem phim hoạt hình tại phòng trọ.

Mang yêu thương nâng đỡ yêu thương

Một căn nhà trọ đặc biệt vừa khánh thành tại chợ Tân Phú, phường Tân Phú, thành phố Thủ Đức (TP Hồ Chí Minh). "Đặc biệt" vì đây là "nhà trọ 0 đồng" dành cho các em nhỏ không may mắc phải căn bệnh hiểm nghèo.
Nghệ nhân K’Trời dạy các cháu học sinh chơi cồng chiêng.

Từ những cuộc trao truyền nhạc cụ dân tộc Mạ

Đồng bào dân tộc Mạ có hệ thống các loại nhạc cụ hết sức độc đáo, bao gồm bộ gõ, bộ dây và bộ hơi; trong đó có một số nhạc cụ chính như: đàn đá, cồng, chiêng, trống, khèn bầu sáu ống, sáo bầu ba lỗ, kèn môi, khèn sừng trâu, đàn ống tre… Ngoài ra, còn có một số nhạc cụ khác được chế tác từ chất liệu thiên nhiên theo sự sáng tạo ngẫu hứng của một số nghệ nhân.
Nhà dài, kiến trúc độc đáo và đặc sắc của người Ê Đê.

"Buôn trong phố" đã hồi sinh

Không gian đô thị hết sức đặc thù, với những buôn làng của cộng đồng người Ê Đê, được kiến tạo nên từ hàng trăm năm qua, nhưng "cơn lốc" đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ đã nhanh chóng đẩy những không gian văn hóa đặc biệt đó của TP Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk) lùi xa, hoặc biến dạng một cách đáng kinh ngạc.