Bảo đảm nguồn lực và điều kiện thực hiện

Bộ Y tế đang chủ trì xây dựng đề án miễn viện phí nhằm từng bước giảm gánh nặng tài chính cho người dân, đặc biệt với các nhóm yếu thế, đồng thời nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe.

Đề án đặt mục tiêu từng bước mở rộng quyền lợi và nâng cao chất lượng, hiệu quả chăm sóc sức khỏe nhân dân. (Ảnh: ĐẠT THÀNH)
Đề án đặt mục tiêu từng bước mở rộng quyền lợi và nâng cao chất lượng, hiệu quả chăm sóc sức khỏe nhân dân. (Ảnh: ĐẠT THÀNH)

Bà Trần Thị Trang, Vụ trưởng Bảo hiểm Y tế, Bộ Y tế (ảnh bên), chia sẻ cùng Nhân Dân cuối tuần chi tiết về tiến độ triển khai, giải pháp tài chính và phạm vi quyền lợi của chính sách này.

Đa dạng hóa nguồn tài chính, nâng cao năng lực hệ thống y tế

- Bộ Y tế được Chính phủ giao chủ trì xây dựng đề án từng bước thực hiện chính sách miễn viện phí. Xin bà cho biết, tiến độ xây dựng đề án đến thời điểm này?

- Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề mà Chính phủ giao cho Bộ Y tế chủ trì thực hiện. Đến nay, Bộ Y tế đã xây dựng khung chính sách miễn viện phí, cũng như đã tổ chức hội thảo xin ý kiến các bên liên quan và chuyên gia lần 1 về định hướng xây dựng đề án.

Đề án có năm nhóm mục tiêu: Từng bước mở rộng quyền lợi và nâng cao chất lượng, hiệu quả chăm sóc sức khỏe nhân dân; giảm gánh nặng tài chính của người dân trong chi tiêu y tế, đặc biệt là một số đối tượng nhạy cảm như người nghèo, cận nghèo, đối tượng chính sách xã hội; tăng cơ hội và bảo đảm công bằng trong tiếp cận dịch vụ y tế; chuyển hướng sang phòng bệnh, sàng lọc bệnh từ xa, từ sớm, góp phần giảm bớt chi phí điều trị giai đoạn muộn; và bảo đảm nguồn lực lâu dài, bền vững.

Phạm vi của chính sách miễn viện phí là một nội dung rất khó. Chúng tôi đã mất 5 tháng tham mưu, xây dựng để bảo đảm khi đưa ra phải khả thi. Trong đó, chính sách phải dựa trên trụ cột là bảo hiểm y tế toàn dân; đồng thời giảm dần và tiến tới miễn tỷ lệ cùng chi trả.

Gói dịch vụ y tế cơ bản thuộc phạm vi miễn viện phí sẽ ban hành danh mục dịch vụ, bệnh, thuốc và thiết bị y tế, bao phủ các bệnh thông thường, ưu tiên những bệnh cần thiết trước, mở rộng dần theo yêu cầu chuyên môn và khả năng ngân sách Nhà nước, Quỹ Bảo hiểm y tế, kết hợp huy động xã hội hóa.

Chính sách sẽ xây dựng mức chi tối đa cho mỗi lượt khám, chữa bệnh dựa trên chi phí nội trú - ngoại trú bình quân toàn quốc, điều chỉnh theo năm hoặc giai đoạn, trừ các bệnh và kỹ thuật có chi phí lớn. Trước mắt, mô hình áp dụng tại cơ sở khám, chữa bệnh ban đầu, tuyến cơ bản, bao gồm bệnh viện công và tư. Việc triển khai theo lộ trình, có thứ tự ưu tiên, phù hợp mức đóng, khả năng cân đối của Quỹ Bảo hiểm y tế và điều kiện kinh tế-xã hội từng thời kỳ.

- Theo các tính toán, việc thực hiện chính sách miễn viện phí sẽ cần nguồn lực tài chính rất lớn và có thể làm gia tăng đáng kể chi tiêu của Quỹ Bảo hiểm y tế. Vậy, Bộ Y tế có những giải pháp gì để bảo đảm khả năng cân đối tài chính?

- Theo đánh giá tác động, chi phí gia tăng tối đa giai đoạn đến 2027 (tăng mức hưởng lên tới 100% cho hộ cận nghèo và người cao tuổi từ 75 tuổi) ước tính từ 455 tỷ đến 2.793 tỷ đồng/năm và khoảng 21.500 tỷ đồng/năm vào năm 2030 khi miễn viện phí cơ bản cho toàn dân. Bộ Y tế đề xuất năm giải pháp, trong đó ưu tiên số 1 là giải pháp tài chính.

Để có nguồn tài chính bền vững, Bộ Y tế đề xuất tăng chi ngân sách và sử dụng một phần kinh phí chương trình Mục tiêu quốc gia về Y tế - Dân số giai đoạn 2026-2035, thể hiện trong tinh thần Nghị quyết 72-NQ/TW; đa dạng hóa các nguồn tài chính khác như bảo hiểm y tế bổ sung, bảo hiểm sức khỏe thương mại, hỗ trợ bệnh nhân, thí điểm thu từ các nguồn thuế đối với sản phẩm ảnh hưởng đến sức khỏe; đổi mới phương thức chi trả dịch vụ, nâng cao hiệu quả quản lý Quỹ Bảo hiểm y tế và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm nguồn lực.

Bên cạnh giải pháp tài chính còn có giải pháp nâng cao năng lực hệ thống y tế, như cải thiện chất lượng dịch vụ, đầu tư nâng cao năng lực tuyến dưới để bảo đảm khám miễn phí phải chất lượng, thậm chí cao hơn khám thông thường; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số vào khám, chữa bệnh; liên thông dữ liệu y tế để giảm chi phí xét nghiệm.

Cùng đó là giải pháp giám sát và đánh giá. Chúng ta bỏ ra khối lượng tài chính rất lớn nên phải chi tiêu hiệu quả, cần cơ chế giám sát chặt chẽ, minh bạch. Dữ liệu phải được thu thập đầy đủ để đánh giá chất lượng điều trị của dịch vụ khám miễn phí, hướng tới nâng cao chất lượng điều trị, phòng ngừa bất bình đẳng mới giữa các nhóm dân cư và phòng chống lạm dụng, lãng phí.

Chọn lọc mô hình, cách thức triển khai

- Hướng tới mục tiêu thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân vào năm 2030, Bộ Y tế đánh giá như thế nào về khả năng cân đối của Quỹ Bảo hiểm y tế theo lộ trình miễn viện phí?

- Quỹ Bảo hiểm y tế cơ bản đã bao phủ công tác khám, chữa bệnh. Tuy nhiên, chính sách miễn viện phí không chỉ chi trả cho khám và điều trị mà còn cho dịch vụ phòng bệnh như sàng lọc bệnh và một số gói dịch vụ y tế cơ bản. Trong giai đoạn tới, cùng với Quỹ Bảo hiểm y tế, nguồn tài chính có thể lấy một phần từ chương trình mục tiêu, một phần từ ngân sách Nhà nước, là nguồn chủ đạo để thực hiện chính sách miễn viện phí.

Các quốc gia thực hiện chính sách miễn viện phí thường yêu cầu người dân đồng chi trả mức nhất định, để bảo đảm sử dụng tiết kiệm và có ý thức trách nhiệm. Bộ Y tế và cơ quan chức năng đang rà soát kinh nghiệm quốc tế, chọn lọc mô hình, cách thức triển khai miễn phí y tế trong phạm vi quyền lợi cơ bản, từ đó áp dụng phù hợp với bối cảnh kinh tế, xã hội, cơ cấu chi phí y tế, đặc điểm sử dụng dịch vụ y tế và hệ thống y tế hiện có của Việt Nam.

- Bà có thể chia sẻ dự kiến thời điểm cụ thể mà người dân sẽ được khám, chữa bệnh miễn phí?

- Bộ Y tế đang hoàn thiện về mặt kỹ thuật và xây dựng văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện việc khám miễn phí cho người dân từ năm 2026. Chúng ta không kỳ vọng có thể triển khai ngay từ ngày 1/1/2026, mà sẽ có thời gian một năm để thực hiện chính sách.

Đây là chính sách lớn thực hiện trên quy mô toàn quốc, đòi hỏi sự chuẩn bị kỹ lưỡng, bảo đảm đủ nguồn lực và điều kiện tổ chức. Bộ Y tế phấn đấu bảo đảm trong năm 2026 sẽ thực hiện khám sức khỏe định kỳ theo lộ trình cho người dân, như đã nêu trong Nghị quyết 72-NQ/TW. Trên cơ sở này, sẽ hoàn thành việc tạo lập hồ sơ sức khỏe điện tử ban đầu cho người dân.

Hiện nay, Bộ Y tế đang xây dựng gói chỉ tiêu, các chỉ số khám sức khỏe định kỳ, đồng thời xây dựng kế hoạch tổng thể, bao gồm xác định đối tượng khám, các chỉ tiêu khám và phân công trách nhiệm chủ đạo cho chính quyền địa phương trong việc tổ chức thực hiện.

Phạm vi quyền lợi của chính sách được thiết kế tập trung vào cấp khám, chữa bệnh ban đầu, y tế cơ sở, sau đó mở rộng lên cấp cơ bản, thực hiện theo lộ trình và gắn với các nhóm đối tượng ưu tiên. Lộ trình này sẽ phụ thuộc vào khả năng cân đối của Quỹ Bảo hiểm y tế, ngân sách Nhà nước và các nguồn xã hội hóa khác.

Trước mắt, chính sách ưu tiên một số nhóm đối tượng chính sách xã hội, bao gồm: người nghèo, cận nghèo, người có thu nhập trung bình, các đối tượng yếu thế khác và người cao tuổi. Về lâu dài, phạm vi quyền lợi sẽ được mở rộng dần theo thời gian và khả năng cân đối của ngân sách cũng như Quỹ Bảo hiểm y tế.

Chi phí khám miễn phí bước đầu ước tính khoảng 300.000 đồng/người, tùy theo đối tượng khám. Ngân sách Nhà nước sẽ chi trả bước đầu, người sử dụng lao động sẽ chi trả phần cho người lao động thuộc diện chính sách này. Quỹ Bảo hiểm y tế sẽ hỗ trợ theo lộ trình, trước mắt dành cho học sinh và sinh viên.

Về quá trình tổ chức triển khai, từng tỉnh sẽ ban hành kế hoạch cụ thể tại địa phương để thực hiện từng bước. Khám bệnh miễn phí tại trạm y tế xã sẽ được phân luồng vào một số ngày nhất định, có sự hỗ trợ của y tế tuyến trên. Lịch khám sẽ được tuyên truyền rộng rãi để người dân nắm rõ, tránh lãng phí nguồn lực.

Để chi trả kinh phí cho các cơ sở y tế tổ chức khám bệnh miễn phí, dự kiến có hai hình thức, một là ngân sách Nhà nước chi trả trực tiếp cho các cơ sở, các cơ sở này sẽ dự toán theo phân cấp ngân sách; hai là Nhà nước chuyển kinh phí vào Quỹ Bảo hiểm y tế, khi người dân đến khám sức khỏe định kỳ, Quỹ Bảo hiểm y tế sẽ thanh toán trực tiếp cùng với kinh phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế hiện hành. Cách làm này sẽ tiết kiệm được khâu tổ chức thực hiện.

- Trân trọng cảm ơn bà!

Bà Trần Thị Trang, Vụ trưởng Bảo hiểm Y tế.

Bà Trần Thị Trang, Vụ trưởng Bảo hiểm Y tế.

Bộ Y tế sẽ trình Thủ tướng sớm ban hành kế hoạch triển khai thực hiện chính sách miễn viện phí chung cho toàn quốc. Khi có kế hoạch, Bộ sẽ công khai để người dân biết, nắm được quyền lợi, nơi khám, chữa bệnh và cách thức thực hiện, bảo đảm người dân được khám, chữa bệnh theo đúng phạm vi quyền lợi như đã nêu trong Nghị quyết 72-NQ/TW.

Trần Thị Trang, Vụ trưởng Bảo hiểm Y tế

Có thể bạn quan tâm

Người dân đến khám bệnh tại Bệnh viện Thanh Nhàn (Hà Nội). (Ảnh Thế Đại)

Rà soát, nâng cao quyền lợi người bệnh

Tám năm qua, danh mục thuốc bảo hiểm y tế thanh toán hầu như không thay đổi. Mới đây, Bộ Y tế đề xuất bổ sung 76 thuốc mới, trong đó có 28 thuốc điều trị ung thư và điều hòa miễn dịch, bao gồm 22 thuốc điều trị đích, là nhóm thuốc có chi phí đắt đỏ hiện nay.

Ảnh: Thành Đạt

Không gian sống cho tương lai

Diện mạo của từng ngôi làng, từng khu đô thị, từng địa phương, thành phố đã và đang trải qua nhiều biến đổi mạnh mẽ cùng tầm nhìn mới trong các quy hoạch cho tương lai.

Một dự án nhà ở xã hội tại Khu đô thị Pháp Vân-Tứ Hiệp (Hà Nội) bị chậm tiến độ.

Tiết kiệm, nhưng phải bảo đảm tiện nghi

Phát triển nhà ở xã hội bền vững, chất lượng với không gian sống tiết kiệm nhưng vẫn đầy đủ tiện nghi cho người có thu nhập thấp, không chỉ là yêu cầu cấp bách trước mắt mà còn hướng tới mục tiêu bảo đảm quyền có chỗ ở của người dân.

Một hạng mục công trình công giáo với màu mộc mạc của vật liệu gạch, ngói, gỗ, do KTS Lê Minh Hoàng và cộng sự thiết kế, giám sát thi công.

Tái sinh những giá trị tinh thần cốt lõi

Để tiếp cận kiến trúc theo hướng bền vững, cần có sự tích hợp giữa tính toàn cầu và tính địa phương, nhằm tạo nên sự cân bằng ổn định trong bối cảnh hiện nay (*)

Copenhagen còn được gọi là thành phố của xe đạp. (Nguồn Visitcopenhagen)

Xanh hóa đô thị: xu hướng tất yếu

Thực tế những năm gần đây, các biến động khí hậu cho thấy mô hình quy hoạch dựa vào bê-tông hóa, mở rộng đường sá và giao thông cơ giới đang bộc lộ giới hạn.

Mẫu nhà dành cho khu vực ngập lụt miền Tây Nam Bộ của nhóm thiết kế do KTS Nguyễn Quốc Hoàng chủ trì. (Nguồn: Tạp chí Kiến trúc)

Hóa giải những thách thức

Những mái nhà ngói ba gian hai chái nhuốm màu rêu phong lấp ló bên rặng tre làng và bờ ao biêng biếc ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ đang ngày càng thưa vắng dần. Lũy tre và bờ ao bao quanh làng dần biến mất, nhường chỗ cho các con đường bê-tông dài rộng, các tòa nhà hai, ba tầng mái tôn theo kiểu dáng nhà mặt phố.

Không gian bên trong Túp House (tỉnh Thanh Hóa) thoáng mát, gọn gàng, hòa hợp thiên nhiên.

Kiến thiết với tâm thế mới

Nhân Dân cuối tuần ghi nhận ý kiến của một số kiến trúc sư làm việc ở những lĩnh vực chuyên môn khác nhau, từ quy hoạch tổng thể cùng xây dựng hệ thống lý thuyết mang giá trị nền tảng, tới thực hành thiết kế kiến trúc.

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.