Tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân
Trước hết cần nhận thức, Hiến pháp đã được sửa đổi, thông qua theo một quy trình dân chủ, bảo đảm tham vấn ý kiến rộng rãi của mọi tầng lớp, thể hiện ý chí của số đông quần chúng nhân dân. Điều đó đã khẳng định thực tế quyền xây dựng Hiến pháp trước hết thuộc về Nhân dân.
Pháp lý hóa quyền xây dựng Hiến pháp của Nhân dân, lời nói đầu của Hiến pháp sửa đổi đã ghi nhận: "Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Nhận thức về chủ thể của quyền lập hiến có sự đổi mới đáng kể trong Hiến pháp sửa đổi. Cụ thể, Điều 83 Hiến pháp năm 1992 quy định "Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp", nội dung này đã được sửa đổi tại Điều 69 "Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp". Thừa nhận Quốc hội không phải cơ quan duy nhất thực hiện quyền lập hiến đã thể hiện sự thay đổi trong lối tư duy về nội dung "tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân", Nhân dân mới là chủ thể tối cao đối với quyền lập hiến.
Vai trò của Nhân dân cũng được khẳng định rất rõ trong quy trình làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, thể hiện trong quy định của Điều 120 "Quốc hội quyết định việc làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành.
Ủy ban dự thảo Hiến pháp soạn thảo, tổ chức lấy ý kiến Nhân dân và trình Quốc hội dự thảo Hiến pháp.
Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định".
Hiến pháp sửa đổi đề cao nguyên tắc Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, đã khắc phục điểm chưa hợp lý trong quy định về hình thức thực hiện quyền lực của Nhân dân. Nếu như trước đây Hiến pháp năm 1992 chỉ ghi nhận "Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân"thì theo Điều 6 Hiến pháp sửa đổi, hình thức thực hiện quyền lực của nhân dân đã được quy định đầy đủ hơn, thể hiện đúng bản chất hơn, cụ thể "Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước".
Phân công quyền lực, kiểm soát quyền lực
Bộ máy nhà nước Việt Nam không tổ chức theo nguyên tắc phân quyền, nhưng có tiếp thu những điểm hợp lý trong lý thuyết phân quyền. Với tinh thần đó, kế thừa Hiến pháp năm 1992, Điều 2 Hiến pháp sửa đổi quy định: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp".
Nhìn vào quy định của Điều 2 như trên, tưởng như về phân công quyền lực không có sự thay đổi, nhưng thực chất, Hiến pháp sửa đổi đã có sự thay đổi một bước trong cách thức tư duy về phân công thực hiện quyền lực nhà nước. Có thể nói, Hiến pháp sửa đổi đã quy định rõ nét hơn, rành mạch hơn đối với các cơ quan công quyền cấp cao trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hiến pháp sửa đổi đã xác định cụ thể trong các Điều 69, 94, 102: Quốc hội thực hiện quyền lập pháp; Chính phủ thực hiện quyền hành pháp; Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Sự phân công rõ ràng về tính chất và phạm vi quyền lực của mỗi loại cơ quan công quyền cũng là đòi hỏi việc thực hiện quyền lực nhà nước phải có giới hạn.
Hiến pháp sửa đổi cũng phản ánh tư duy đổi mới về kiểm soát quyền lực nhà nước được khẳng định trong Văn kiện của Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều 2 Hiến pháp sửa đổi khẳng định nguyên tắc "kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp". Kiểm soát quyền lực nhà nước được thực hiện đồng thời với nguyên tắc phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực nhà nước. Điều đó, hàm chứa nội dung mỗi cơ quan trong việc thực thi quyền lực nhà nước đều phải chịu sự kiểm soát lẫn nhau bằng các quyền cụ thể do pháp luật quy định, đồng thời mỗi cơ quan đều có trách nhiệm thực hiện đúng phạm vi quyền lực của mình, không xâm lấn, không lạm quyền. Tuy nhiên, sự phân công, phối hợp, kiểm soát đặt trong nguyên tắc thống nhất quyền lực được xác định trong Hiến pháp sửa đổi cũng khác với kiềm chế, đối trọngcủa nguyên tắc phân chia quyền lực theo thuyết Tam quyền phân lập. Sự khác biệt đó, chủ yếu thể hiện thông qua việc Hiến pháp sửa đổi tiếp tục khẳng định "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam". Ngoài quyền lập pháp, Quốc hội còn thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước và quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Qua các quy định cụ thể, có thể nhận thấy Hiến pháp sửa đổi là một bước đổi mới sâu sắc nhận thức tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, về nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước.