Nghề rèn có từ thời thành Thăng Long và chỗ này trước là phố Hàng Bừa. Dân phố sau đa số gốc Canh Diễn. Thế kỷ 19, họ bắt đầu ra đây, dần dần tụ với nhau thổi bễ và thành phường lò rèn, sau này thành phố. Hưng thịnh nhất là giai đoạn cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khi người Pháp mở rộng xây dựng. Từ đường sắt, cầu, đường điện, cột điện cho đến kiến trúc… đâu đâu cũng cần đến sản phẩm từ Lò Rèn. Những bu-lông, tà-vẹt cho đến bản lề, hoa văn song sắt người Pháp gần như đặt hàng hết ở đây. Kháng chiến chống Pháp, Lò Rèn lại cung cấp những súng kíp, giáo mác… cho quân ta.
Nghề rèn là nghề tinh hoa. Bao đời cha truyền con nối. Truyền cho nhau cái yêu, cái hiểu khối thép, lửa nhiệt và tiếng nện búa. Không hiểu, không cảm được tất thảy thì sẽ không tạo nên được những sản phẩm chất lượng cao nức tiếng xa gần. Ông Hùng hiểu nghề đến mức mấy chục năm nện búa mà không bị chai tay. Ông kể về cha với giọng đầy tự hào. Ông cụ dạy con: “Con cứ đỏ lửa là có tiền. Đỏ lửa, đời ông không chết đói, đời cha không chết đói thì đời con cũng vậy. Với điều kiện, con phải kiên trì, làm và yêu nghề như bố!”. Ông cứ vịn vào đó, đơn độc mà ôm lấy nghiệp.
Làm rèn rất nóng, bỏng tay, bỏng chân chuyện thường. Đầu óc lúc nào cũng căng thẳng. Những ai nóng tính thì không thể làm được nghề rèn. Người làm nghề rèn luôn điềm đạm và vui với đời. Trời có giông bão, vẫn nhìn ra những điều tích cực mà nghĩ đến những ngày nắng ráo.
Ấy vậy mà không phải thợ rèn nào cũng theo nghề được đến đầu đến đũa. Trước đó, ông đã từng thôi nghiệp lò bễ mà làm thợ hàn, thợ cơ khí, lái xe, thợ sửa ô-tô. Ngay cả ông cụ thân sinh ra ông cũng vậy. Ông cụ từng làm chế tác đạo cụ cho nhiều xưởng phim, nhà hát ở Hà Nội. Nhưng tổ nghiệp lại gọi. Thế là lại về với lò bễ và búa, đe. Tại căn nhà cũ ngay đầu phố Lò Rèn vẫn còn nơi thờ ông tổ nghề rèn. Trên căn gác hai căn nhà ấy là ngôi đình thờ, nơi chứng kiến những sự kiện lớn của nghề rèn cũng như của phố.
Người giữ nghề “chân than mặt bụi” ấy vẫn ấm lòng bởi những lời trầm trồ hài lòng của khách hàng gần xa. Vậy nên sáng nào cũng phải đỏ lửa lò, treo cao lên trên là cái siêu tận dụng nhiệt lò để đun nước pha trà sáng. Và những đơn hàng mới…
Nhưng vẫn còn điều đau đáu. Những chiếc lá vàng rụng về cội, nhường lại cành cho những chồi non bật lên. Nhưng điều đó gần như không còn có thể xảy ra ở phố Lò Rèn. Ông Hùng bắt đầu già và không thể tìm được người kế nghiệp. Lò rèn trên phố Lò Rèn sẽ chỉ còn là hư cấu trong sách vở hay sao?
Hà Nội gần như mất hết các nghề truyền thống đáng lưu giữ trong phố cũ. Không có sự phát triển nào mà không phải đánh đổi bằng bản sắc. Chúng ta cần những lối đi thật sự có tầm để quá khứ và hiện tại về sau không phải hối hận với tương lai.