Được mệnh danh là “vựa nông sản” của Việt Nam, nhưng ĐBSCL đang phải đối mặt với thực trạng đáng báo động về rác thải, đe dọa sinh kế và đời sống của người dân.
Câu chuyện ô nhiễm không còn là hiện tượng cục bộ: mỗi năm, lượng rác thải rắn sinh hoạt ở ĐBSCL tăng 9-10%, phần lớn chưa được phân loại, trong khi hệ thống thu gom - xử lý lại yếu và manh mún. Những bãi chôn lấp quá tải “đến hẹn lại cháy”, nước rỉ rác lan xuống ruộng đồng. Từ một vùng đất trù phú, ĐBSCL đang phải trả giá đắt cho mô hình phát triển không song hành với quản lý rác.
Rác thải tác động đa chiều tới kinh tế vùng
Theo các nghiên cứu của Tổ chức Hợp tác phát triển Đức (GIZ), lượng rác thải sinh hoạt toàn vùng dao động từ 13.000-15.000 tấn/ngày, tương đương gần 5 triệu tấn/năm. Trong số đó, khoảng 70% được thu gom nhưng chủ yếu đem chôn lấp thô sơ; 30% còn lại thất thoát ra môi trường, theo các kênh, rạch nội đồng đổ thẳng ra biển. Đáng lo ngại hơn, chỉ hai khu xử lý rác liên tỉnh đang hoạt động ổn định, còn lại nhiều địa phương buộc phải dựa vào bãi rác tạm hoặc các nhà máy công suất nhỏ.
Tại Cần Thơ, bãi rác Đông Thắng thường xuyên quá tải, gây phản ứng kéo dài của người dân. Ở Cà Mau, nhà máy xử lý rác duy nhất đóng cửa chờ đơn giá mới khiến rác ùn ứ trên diện rộng; bãi rác Tân Tạo tích tụ suốt 15 năm, cao hơn 20m gấp bốn lần thiết kế. Hàng loạt bãi rác như An Hiệp (Vĩnh Long), Tân Tạo (Cà Mau), hay các điểm tập kết dưới chân cầu Hưng Lợi (Cần Thơ) trở thành nguồn phát tán mùi hôi, khí độc, nước rỉ rác. Mùa mưa, rác trôi xuống hệ thống thủy lợi, gây tắc nghẽn dòng chảy, ảnh hưởng nghiêm trọng tới mô hình nuôi tôm lúa và vùng cá tra tập trung.
Rác nhựa, bao bì phân bón theo đầu nguồn nước trôi xuống ruộng lúa, bám vào gốc rạ, làm giảm năng suất và tăng chi phí thu dọn. Ở nhiều khu vực ven sông, nước rỉ rác từ bãi chôn lấp lậu ngấm xuống đất, đầu độc đất sản xuất suốt nhiều năm. Rác thải từ ao tôm như bạt nhựa, vật liệu che chắn khi bị đổ hoặc đốt tràn lan gây suy giảm chất lượng nước, khiến tôm dễ bệnh và sản lượng xuống thấp.
Nước nội đồng ô nhiễm làm giảm chất lượng cá tra, mặt hàng chủ lực xuất khẩu của vùng. Một số thị trường khó tính như EU, Mỹ đã cảnh báo về “vi nhựa trong chuỗi sản xuất thực phẩm”. Nếu không xử lý căn cơ, nguy cơ mất uy tín và giảm giá trị xuất khẩu là hoàn toàn hiện hữu. Tại Phú Quốc hay các chợ nổi ở Cần Thơ, hình ảnh kênh rạch đầy rác khiến du khách ngao ngán. Rác phủ kín bãi biển, bám vào chân cầu, len vào khu dân cư không chỉ làm suy giảm sức hút du lịch mà còn đe dọa sức khỏe cộng đồng bởi ô nhiễm không khí và nước mặt.
Lý giải cho nguyên nhân của tình trạng này, chính quyền và các doanh nghiệp tại nhiều địa phương cho rằng, do địa bàn rộng và dân cư phân tán khiến chi phí thu gom cao, nhiều nơi xe rác không thể tiếp cận.
Tình trạng xả rác bừa bãi “xả đâu cũng được” đã tồn tại lâu đời, khó thay đổi trong ngày một ngày hai. Toàn vùng thiếu các nhà máy xử lý rác công suất lớn, có khả năng tiếp nhận rác tạp không phân loại. Ngân sách địa phương hạn chế, nhiều dự án đấu thầu thất bại vì không đủ nguồn rác hoặc vướng quy định pháp lý về quy hoạch và môi trường.
Đặc biệt, mùa lũ làm “tái phân phối rác”, rác trôi từ tỉnh đầu nguồn xuống tỉnh cuối nguồn, khiến việc truy xuất nguồn thải gần như không thể.
Ông Nguyễn Trường Thành (Đại học Cần Thơ) cảnh báo, nước rỉ rác ảnh hưởng trực tiếp đến nước ngầm và diện tích nông nghiệp xung quanh, tạo ra vòng luẩn quẩn ô nhiễm kéo dài nhiều năm.
Nỗ lực mới và chính sách cấp vùng
Mặc dù đối mặt nhiều khó khăn, một số địa phương đang thử nghiệm giải pháp mới. Cần Thơ, Tây Ninh thí điểm thu gom phân loại rác tại nguồn, bước đầu tạo chuyển biến ở khu dân cư. Một số mô hình ủ vi sinh xử lý rác hữu cơ tại hộ gia đình cho thấy khả năng giảm 30-40% khối lượng rác phải thu gom.
Nhiều doanh nghiệp đang tham gia kinh tế tuần hoàn: biến phụ phẩm cá tra thành thức ăn chăn nuôi, tận dụng vỏ trái cây làm phân bón. Tuy nhiên, để mô hình này lan tỏa, cần khung pháp lý rõ ràng hơn về thu phí rác thải, quy chuẩn phân loại rác và tiêu chuẩn vận hành nhà máy.
Về tầm vùng, các chuyên gia đề xuất xây dựng trung tâm xử lý liên tỉnh với quy mô khoảng 50 ha, đặt cách khu dân cư ít nhất 40 km. Đây sẽ là giải pháp khả thi nhằm bảo đảm đủ lượng rác cho vận hành và thu hút nhà đầu tư. Cùng với đó, các địa phương đang rà soát quy hoạch bãi tập kết, trạm trung chuyển và đẩy mạnh xử phạt hành vi xả rác xuống kênh rạch vốn phổ biến tại các đô thị ven sông.
Rác thải không còn là vấn đề môi trường đơn thuần. Đó là câu chuyện sinh kế của hàng triệu nông dân, là chất lượng nông sản xuất khẩu, là tương lai phát triển của một vùng đất giàu tiềm năng. Nếu không sớm xử lý, hệ lụy rác thải sẽ tiếp tục đè lên đời sống và đánh mất những giá trị mà ĐBSCL đã dày công vun đắp.
Trong khi đó, nhiều nhà máy xử lý rác hàng trăm tỷ đồng lại “đắp chiếu”, như nhà máy Phương Thảo tại Long Hồ (Vĩnh Long), chỉ hoạt động một phần năm công suất rồi phải dừng vì không đủ chi phí vận hành. Hàng trăm tấn rác mỗi ngày không có nơi xử lý đúng quy chuẩn đang trở thành gánh nặng chung của cả cộng đồng.
Tiêu điểm: Đồng bằng sông Cửu Long đối mặt rác thải