Hồi sinh tộc người Ðan Lai

Ðường vào nơi ở của tộc người Ðan Lai thật vô cùng khó khăn, vất vả, chỉ duy nhất đi được bằng thuyền. Không có một lối mòn nào dù là lối đi của trâu rừng. Núi non bốn phía cao chất ngất, rừng sâu thăm thẳm. Nhìn cảnh núi non, rừng già biết là nơi này không có bóng người tăm cá. Nghe thác chảy, nghe tiếng vọng của thâm nghiêm càng tăng thêm vẻ huyền bí, hoang sơ đến lạnh người. Từ Ðồn Biên phòng Môn Sơn ở huyện Con Cuông chúng tôi theo thuyền ngược lên thượng nguồn. 

Chiếc thuyền gỗ dài vút như thuyền độc mộc gắn máy đẩy do hai chiến sĩ của đồn chở chúng tôi ngược con sông Bằng. Con sông Bằng là lối đi duy nhất nối liền miền thượng du Con Cuông và vùng trung du Thanh Chương với Biển Ðông. Mùa này còn có nước nên thuyền có thể vào tận các hẻm núi xa mù. Các chiến sĩ biên phòng cho biết phải ngược hơn 43 cái thác mới đến chỗ bà con tộc người Ðan Lai ở. Núi non, rừng sâu thăm thẳm kích thích trí tò mò, nỗi hiếu kỳ của chúng tôi. Thuyền cứ thế phăm phăm ngược thác ghềnh.

Xuất phát từ Ðồn Môn Sơn từ lúc tám giờ đến mười hai giờ trưa chúng tôi đã đến Trạm công tác của Ðồn Môn Sơn đóng ở bản Búng - một bản tận cùng có người Ðan Lai sinh sống.

Trạm trưởng, Ðại úy Võ Văn Quỳnh dẫn  chúng tôi đi vào bản Búng. Bản Búng là bản ở xa nhất sát biên giới Việt - Lào. Từ bản Búng sang Lào theo đường chim bay độ một vài tiếng đồng hồ nhưng đi bộ thì cũng đến hai ngày đường. Anh Quỳnh là một sĩ quan biên phòng đẹp trai, cường tráng dạn dày kinh nghiệm. Với tác phong quân sự hoạt bát nhanh nhẹn, khẩn trương, anh cởi quần dài khoác vai băng băng lội suối.

Ði độ gần 30 phút thì đến bên một dãy núi thâm u, phía trên có mây mờ che phủ, thấp thoáng hiện ra một mái nhà sàn bạc phếch nổi lên giữa mầu xanh của núi rừng. Tiến lên một quãng nữa chúng tôi đã đứng trước bản của đồng bào Ðan Lai.

Theo nhiều nguồn thông tin, mới đây tôi biết được tộc người Ðan Lai. Họ được xếp vào tộc người Tày. Người Ðan Lai bây giờ chỉ còn khoảng 3.000 khẩu. Họ sống chủ yếu ở miền núi cao thượng nguồn sông Bằng, huyện Con Cuông, Nghệ An. Ðó là tộc người có nguồn gốc người Kinh dưới xuôi chạy lên mạn ngược tránh áp bức của quan lại phong kiến thời xưa và càng ngày càng mai một, lạc hậu.

Bây giờ đứng trước bản của người Ðan Lai tôi không khỏi hồi hộp để nhìn cho tận, để hiểu cho tường về họ. Anh Quỳnh cho biết, bản Búng là bản cuối cùng của người Ðan Lai. Bản Búng hiện có 87 hộ với 436 khẩu. Trưởng bản La Văn Việt 46 tuổi. Bản Búng có hai điểm trường đã xây được hai phòng học kiên cố. 

Chiều thứ sáu, các thầy cô đang chuẩn bị về xuôi nhưng nghe có khách đến thăm các thầy cô nán lại tiếp chuyện với chúng tôi. Ðiểm trường bản Búng có năm thầy cô đang đứng lớp. Thầy Phạm Anh Thống dạy lớp 5, cô La Thị Hoàn dạy lớp 2, cô Nguyễn Thị Danh dạy lớp 1, thầy Kha Văn Dân dạy lớp 4, thầy Lê Văn Tiến, Tổ trưởng dạy lớp 3. Các thầy cô đều ở các xã khác đến dạy học ở đây. Họ đều có độ tuổi từ 30 đến 40. Từ bao năm nay họ  chịu đựng gian khổ đem con chữ đến cho người Ðan Lai.

Thầy Tiến cho chúng tôi biết, nhiệm vụ chính của các thầy cô là vận động học sinh đi học và dạy cho học sinh biết đọc, biết viết và biết làm toán bằng các phép tính đơn giản dễ hiểu. Tôi đi thăm các lớp học. Những bài tập đọc, những bài toán số đang còn lưu trên bảng đen chứng tỏ các em học sinh Ðan Lai đã biết đọc, biết viết, biết làm toán. Người Ðan Lai không mù chữ nữa. Thế hệ các em hôm nay rõ ràng là hơn thế hệ cha mẹ của các em. Tuy chưa thể so sánh với các học sinh dưới xuôi nhưng những con chữ, con toán này chứng tỏ thế hệ các em sẽ tiếp cận với văn hóa dân tộc, các em còn đi xa nữa trên đường học tập. Nếu chịu khó học tập các em còn đạt được những kết quả cao hơn.

Qua lời kể của các thầy cô, chúng tôi còn nghe được một câu chuyện tình thật là ly kỳ giữa cô giáo cắm bản và chàng trai người Ðan Lai. Cô giáo tên là Vi Thị Khiểu đã từng là Hiệu phó Trường tiểu học Môn Sơn. Ðến dạy học ở bản Búng cô đã có cảm tình với chàng trai Ðan Lai tên là La Hồng Thám. La Hồng Thám nhỏ hơn cô giáo 12 tuổi. Anh  là học sinh bổ túc văn hóa học để thoát mù chữ. Cô giáo đã dạy cho anh Thám biết đọc, biết viết và cũng từ đó tình yêu đã nảy nở giữa hai người. Người Ðan Lai chưa bao giờ có tục lấy người khác bản, khác xã và ngoại tộc nên cộng đồng không tán thành mối tình của đôi trai gái. Thế là hai người kéo nhau vào trong rừng hơn ba tháng. Họ tự làm lán, săn thú rừng về ăn khăng khít yêu nhau, không có trở lực nào ngăn được tình duyên của họ.

Thấy đôi lứa quá keo sơn với nhau già làng, trưởng bản và bà con đành phải chấp nhận mối tình của họ. Thế là lần đầu tiên người Ðan Lai có người kết hôn với người ngoại tộc. Họ ở với nhau đã hơn 20 năm trời!

GIÀ làng bản Búng tên là Lê Văn Khai. Gọi là già làng nhưng ông Khai mới 55 tuổi. Ngôi nhà sàn của già làng cũng giống như bao ngôi nhà sàn trong bản và cũng giống như nhà sàn của đồng bào Mường, Thái, Vân Kiều.  Nó có gác cao để chống thú dữ. Phía dưới có nhà để đồ, có nhà không để gì. Nhà sàn của bà con dân tộc không có dấu vết của sắt thép. Không một sợi sắt, không một cái đinh. Tất cả chỉ có buộc dây, buộc dợ như thuở bình minh của loài người. Mọi sinh hoạt đều ở trên sàn. Sàn nhà nào cũng có bếp lửa giữa sàn. Ðang mùa hè nhưng vẫn nhóm lửa để cháy cả đêm. Trên sàn treo các loại giống hạt như lúa nếp, ngô nếp và cả những mảng thịt da thú rừng đen bóng cong queo... Vợ già làng đang ngồi thổi lửa, nướng nướng cái gì không rõ. Bà cũng người trong bản nhưng họ La...

Thiếu ăn, đói khổ không chỉ tộc người Ðan Lai mà rất nhiều tộc người khác trên rẻo đất biên cương cuộc sống còn khó khăn. Người Ðan Lai vẫn lấy săn bắt, hái lượm làm phương thức kiếm sống chính. Tập quán này còn lâu mới xóa bỏ được.

Vì sao có tên Ðan Lai? Người bản địa và các học giả cũng chỉ hiểu sơ sơ là, họ là tộc người đan xen giữa tộc này và tộc kia một ít, lai tạp một ít, không có bản sắc riêng. Họ ăn mặc như người Kinh, ở như người Thái, tập tục ma chay lai Kinh một ít, lai Thái một ít, lai Mường một ít... Tiếng nói cũng vậy. Ði là ti, chơi là yến, đi chơi là ti yến, về là viề, uống là nhổ, uống rượu là nhổ liệu, uống nước là nhổ đác, ăn cơm là ăn cơm, cái đọi là cái đọi (bát tô - tiếng Nghệ An), tôi yêu em là chắc ưng mì... Nhiều tiếng giữ nguyên tiếng Kinh hoặc tiếng Thái, tiếng Mường.

Tôi hỏi già làng Khai về các điệu hát múa thì ông bảo đều học theo các điệu hát múa của người Thái, người Mường hết. Tôi càng tin hơn truyền thuyết người Ðan Lai và lời kể của già làng  về nguồn gốc của họ là người Kinh, bởi khi thấy các bà, các chị người Ðan Lai lớn tuổi ăn trầu. Người Việt là một tộc người có tục ăn trầu từ thời cổ đại. Thấy tục ăn trầu ở nơi nào đó chúng ta dễ nhận ra họ là người có nguồn gốc dân Việt. 

Chúng tôi gặp đôi vợ chồng La Văn Sinh và Lê Thị Nong và cô Lê Thị Duyên. Trông họ ngỡ như những thiếu niên mười ba, mười bốn tuổi dưới xuôi. Họ cao độ mét ba, mét tư, không cao hơn người lùn Pích-mê bên châu Phi bao nhiêu. Hỏi tuổi mới biết họ mới 24-25 tuổi, nhưng đôi vợ chồng La Văn Sinh và Lê Thị Nong đã có hai con. Còn cô Lê Thị Duyên thì đã có ba con, chồng cũng họ Lê. Họ đều lấy người trong bản, thế thì làm sao tránh được hai vợ chồng rất gần huyết thống. Ðây cũng là nguyên nhân chính làm cho nòi giống họ suy kiệt dần dần. Ðiều kiện địa lý và kinh tế không cho phép họ giao lưu ra bên ngoài. Bản Búng cô lẻ nằm giữa sâu thẳm núi non trùng điệp, không có đường sá thông thương ra các miền khác. Họ không có điều kiện tiếp xúc các cộng đồng tộc người. Nên chi việc kết hôn cận huyết thống đã làm nguy hại đến tộc người của họ.

Ở bản Cò Phạt cũng vậy. Ðây cũng là tộc người Ðan Lai gần huyết thống với người Ðan Lai ở bản Búng. Bản Cò Phạt có 87 hộ, 381 khẩu. Kinh tế cũng rất khó khăn. Ðược một cái là bản có điểm trường, trường lớp xây dựng khang trang hơn bản Búng. Chúng tôi đến thì cả bản gần như trống không. Mùa này bà con lên rừng thu hái măng tre, kiếm lá, kiếm cây thuốc về bán kiếm gạo, đổi dầu muối. Con gái con trai trong bản lấy nhau như bên bản Búng nên người nào cũng còi cọc và thấp nhỏ. Gái trai, già trẻ gì cũng đều uống rượu rất dữ.

Ðể cứu tộc người Ðan Lai khỏi diệt vong ngay từ năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định 280 phê duyệt đề án 'Bảo tồn và phát triển bền vững tộc người thiểu số Ðan Lai hiện đang sinh sống tại vùng lõi Vườn quốc gia Pù Mát huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An' và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng Nghệ An đã có Kế hoạch số 316 tháng 5 năm 2009 về việc thực hiện Ðề án 280 của Thủ tướng Chính phủ.

Mới hơn một năm, trong thời gian rất ngắn triển khai thực hiện Ðề án, Bộ đội Biên phòng Nghệ An đã có những kết quả đạt được rất khả quan. Ðồn Biên phòng 555 (Môn Sơn) và hai tổ công tác cắm hai bản bản Búng và bản Cò Phạt đã phối hợp với địa phương tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Ðảng và pháp luật của Nhà nước về hôn nhân gia đình, sinh đẻ có kế hoạch, xây dựng bản làng văn hóa, bài trừ mê tín dị đoan, mở rộng giao lưu với đồng bào các dân tộc khác... Chú trọng tuyên truyền cho đồng bào về nâng cao nhận thức hôn nhân cận huyết thống, góp phần nâng cao chất lượng dân số. Trong vệ sinh nhà cửa làng bản, hai tổ công tác đã tuyên truyền vận động bà con di dời chuồng trại gia súc ra khỏi nhà ở, giữ gìn vệ sinh thôn xóm. Vận động dân lập bàn thờ cúng tổ tiên theo phong tục tập quán cổ truyền của Việt Nam. Tổ chức chính trị hai bản cũng được đẩy mạnh lên một bước. Giới thiệu các đảng viên của hai tổ công tác về sinh hoạt tạm thời ở hai chi bộ của bản, giúp hai chi bộ duy trì hoạt động có nền nếp, có hiệu quả và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và các tổ chức quần chúng như chi đoàn thanh niên, chi hội phụ nữ, ban công tác mặt trận, hội cựu chiến binh, hội người cao tuổi. Trong 6 tháng đầu năm 2010, hai tổ công tác Bộ đội Biên phòng đã giúp chi đoàn thanh niên bồi dưỡng một đoàn viên ưu tú để giới thiệu cho Ðảng và kết nạp được một đoàn viên mới.

Về việc giúp dân phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, Bộ đội Biên phòng ở hai tổ công tác cắm bản đã thường xuyên làm tốt công tác vận động và hướng dẫn nhân dân làm ruộng lúa nước, làm vườn trồng rau màu, tu sửa nhà cửa, nạo vét kênh mương... Triển khai làm hoàn thành và bàn giao đưa vào sử dụng Trạm Quân - Dân y kết hợp tại bản Cò Phạt trị giá 300 triệu đồng do Tổng công ty thăm dò khai thác Dầu khí tài trợ.

Hiện tại để thực hiện thành công Ðề án của Thủ tướng Chính phủ các đơn vị liên kết đang vào cuộc. Ngành giao thông kết hợp cùng Bộ đội Biên phòng đã triển khai mở đường vào bản Búng. Dự án 118 tỷ đồng đang thực hiện có hiệu quả. Con đường này sẽ mở mang giao thông nối dân bản Ðan Lai với bên ngoài.

Tôi được nhiều lần đi công tác cùng các chiến sĩ biên phòng, cùng ăn, cùng ở, cùng chia sẻ với bao vất vả cực nhọc của cuộc đời người lính. Ðể bảo vệ vùng biên cương vững như bàn thạch của Tổ quốc hôm nay công lao của anh bộ đội mang quân hàm xanh không phải nhỏ. Họ vừa giữ vững tay súng, sẵn sàng chiến đấu vừa là người ba cùng với đồng bào biên thùy, bộ đội không chỉ dạy họ đánh giặc mà còn dạy họ chữ viết, bày cho họ làm ăn, lo toan sắp xếp cuộc sống có văn hóa, có tình làng nghĩa xóm...

Chiều hôm sau, anh Quỳnh dẫn chúng tôi đi thăm cánh lúa mà bộ đội đã dày công hướng dẫn bà con trong bản cấy cày, chăm sóc nay chuẩn bị thu hoạch. Cánh lúa này độ gần hai ha. Ruộng nằm dưới lòng thung khá bằng phẳng. Lúa đang chín bói, mầu vàng tươi, trông rất bắt mắt. Nhìn cánh lúa trong núi tôi thấy chẳng khác gì cánh lúa miền đồng bằng. Mầu vàng mầu của ấm no đã đến. Bản Búng làm được hai ba cánh lúa như thế này thì đâu còn lo đói nữa.

- Dạy đồng bào làm lúa nước khổ lắm các anh ạ. - Anh Quỳnh nói với chúng tôi.- Họ thích cầm con dao vào rừng lấy măng, lấy củ về ăn, chứ cầm cái cày, cái cuốc, dắt con trâu cày ruộng là họ ngại lắm!  Chúng tôi phải bắt tay dạy việc cho bà con. Bộ đội cày bừa cho, thậm chí cấy mạ cho luôn, chỉ nói bà con bỏ phân làm cỏ, dẫn nước tưới thế mà có thửa lúa nước vẫn không có, ruộng vẫn khô rang.

Tôi thầm nghĩ: Chỉ mới một năm mà đã vận động bà con Ðan Lai làm được lúa nước là một thành tích lớn rồi. Thay đổi một tập quán, dù là tập quán canh tác đi nữa cũng phải có thời gian dài, thậm chí qua mấy thế hệ. Không thể ngày một ngày hai từ săn bắn hái lượm người ta chuyển qua trồng trọt chăn nuôi được ngay.

Công lao của các chiến sĩ giúp đồng bào tuy âm thầm lặng lẽ nhưng lớn lao vô cùng. Tộc người Ðan Lai đang hồi sinh. Không thể ngày một ngày hai họ sẽ tiến kịp miền xuôi nhưng rõ ràng họ không bị thoái hóa diệt vong. Rồi đây khi con đường lớn chạy tới bản Búng, Vườn quốc gia Pù Mát mở rộng thì cuộc sống của người Ðan Lai sẽ đổi thay biết nhường nào. Ðó là một sự thật và trong tương lai không xa nữa!

Có thể bạn quan tâm