Không còn gì để phải nghi ngờ rằng không thể nâng cao năng suất lao động xã hội nếu không chấp nhận kinh tế thị trường. Những mô hình kinh tế phi thị trường có thể xây đắp nên “Vạn lý trường thành” và “Kim tự tháp” thời cổ đại, hoặc có thể tạo dựng được cả một “siêu cường về quân sự”, nhưng rõ ràng là không thể tạo nên một năng suất lao động xã hội đủ để thực hiện việc đáp ứng những nhu cầu vật chất và tinh thần ngày càng tăng của đại đa số công dân. Đã hoàn toàn rõ ràng để khẳng định rằng kinh tế thị trường là sản phẩm phát triển của nền văn minh nhân loại chứ nó không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa chỉ là một mô hình của kinh tế thị trường. Và tất nhiên đó không phải là mô hình kinh tế thị trường duy nhất hoặc ưu việt nhất. Ngay giữa các nước lựa chọn mô hình này cũng có những khác biệt rất lớn mang đặc điểm của riêng họ. Vì vậy sẽ không thể dùng cụm từ “nền kinh tế thị trường hiện đại” (như trong Dự thảo) với tư cách là một khái niệm có tính bao trùm tất cả các nền kinh tế đương đại kể cả nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (KTTTĐHXHCN) của Việt Nam. Điều đó sẽ có thể gây hiểu nhầm thậm chí vô hiệu hóa tính chất XHCN trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta.
Những căn bệnh mà hàng thế kỷ đã qua ở các nước tư bản phát triển nhất (những nơi thường được coi là có nền kinh tế thị trường hiện đại) vẫn không thể được khắc phục đáng kể như: Thực trạng phân hóa thu nhập giữa: 1% và 99% dân số; di dân kinh tế; khủng hoảng kinh tế kéo dài,… Không phải vô lý khi không ít học giả có tên tuổi ở nhiều nước khuyến nghị giới cầm quyền nước họ tìm về những “liều thuốc” mà C.Mác và Ph.Ăng-ghen đưa ra từ giữa thế kỷ XIX.
Sự thất bại của mô hình Chủ nghĩa xã hội kiểu xô-viết cũng chứng minh rằng không thể xây dựng chủ nghĩa xã hội với tư cách là một chế độ xã hội ưu việt hơn hẳn so với chủ nghĩa tư bản về mọi phương diện nhất là về năng suất lao động xã hội, nếu không chấp nhận kinh tế thị trường.
Không đặt nền kinh tế trên đường ray của cơ chế thị trường, những mục tiêu xã hội chủ nghĩa nhiều lắm cũng chỉ là có một nền kinh tế vừa lãng phí, vừa khan hiếm hoặc ở trong các khẩu hiệu, các tài liệu, văn bản mang đậm màu sắc của bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, giản đơn về chủ nghĩa xã hội, như Đảng ta đã từng phê phán trong Văn kiện Đại hội VI.
So sánh như trên để thấy tính tất yếu khách quan của sự lựa chọn mô hình KTTTĐHXHCN với tiêu chí quan trọng nhất là đáp ứng lợi ích kinh tế của những người lao động-lực lượng luôn luôn chiếm đại đa số ở nước ta.
Tiêu chí “phát triển bền vững” cũng không thể phù hợp với các nền kinh tế thị trường TBCN-đó là một thực tế hiển nhiên. Phải chăng vì thế mà chính giới trí thức tiến bộ ở các nước tư bản phát triển nhất liên tục kêu gọi nhà cầm quyền nước họ về thực thi phát triển bền vững trong những thập niên gần đây? Trong khi đó 30 năm phát triển KTTTĐHXHCN của Việt Nam lại có được những bằng chứng thuyết phục hơn cho thấy tính chất bền vững cả về kinh tế, chính trị, xã hội ở một đất nước có điểm xuất phát thấp về trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, KTTTĐHXHCN đã đẩy nhanh quá trình “hàng hóa hóa” hầu hết các yếu tố của sản xuất và thực hiện sự phân phối chúng ngày càng tuân theo các quy luật của thị trường, đạp bằng mọi sự ngăn cấm hành chính phi kinh tế, làm cho người sản xuất phải đối mặt trực tiếp với người tiêu dùng trên thị trường và tự khẳng định mình trên thị trường không phải cần sự cho phép hay thông qua hệ thống phân phối của nhà nước. Các doanh nghiệp cũng như người sản xuất đơn lẻ bất kỳ hàng hóa hay dịch vụ nào cũng buộc phải đưa ra thị trường những hàng hóa tốt nhất của mình để vì mình chứ không phải vì ai khác. Những cái xấu, phế phẩm đành phải để lại và tự tiêu dùng nếu không muốn vứt bỏ. Người sản xuất thoát khỏi cái gông cùm của tư duy “của tốt nhà dùng” “làm nghề gì ăn nghề đó”. Nhà nước được giải phóng thoát khỏi cái nhiệm vụ “bất khả thi” là làm trung gian giữa sản xuất và tiêu dùng (nhà kho, nhà phân phối) để tập trung vào lĩnh vực kiểm tra, kiểm soát hoặc cung cấp các hàng hóa công cộng. Về thực chất đây không phải chỉ là giải phóng sức sản xuất như một số người quan niệm mà còn là giải phóng cho nhà nước khỏi những nhiệm vụ mà nó không bao giờ làm tốt được mà càng làm càng kém hiệu quả, càng phình to bộ máy quan liêu của nó.
Trong gần 30 năm đổi mới quá trình “hàng hóa hóa” nền kinh tế đã liên tục phát triển, trong nhiều trường hợp tốc độ của nó làm cho tư duy và lý luận kinh tế không theo kịp và bị tụt hậu khá nghiêm trọng. Bất chấp màu xám của lý luận kinh tế chưa sáng lên được là bao, thực tiễn của nền KTTTĐHXHCN vẫn tiến về phía trước và tạo thêm lên ngày một nhiều hơn những vấn đề mới cần phải giải đáp về mặt lý luận.
30 năm đổi mới đã đưa nền kinh tế nước ta đạt đến quy mô lớn gấp tới hơn ba lần so với khi bắt đầu, nó vẫn đã và đang giữ đúng định hướng XHCN, nhưng rõ ràng là chưa thể khắc phục được hiểm họa tiềm ẩn ở trong những giáo điều cũ và mới. Quy mô của nền kinh tế trên thực tế cũng đã vượt lên khá nhanh so với năng lực của chủ thể quản lý kinh tế hàng đầu: Nhà nước bao gồm các thiết chế và đội ngũ cán bộ, công chức.
Để tiếp tục tiến lên cần phải có những “đột phá” mạnh mẽ hơn về hoàn thiện thể chế KTTTĐHXHCN. Từ những kinh nghiệm trong nước và của nước ngoài cho thấy rõ cần phải làm sâu sắc thêm quá trình hàng hóa hóa tất cả những gì đủ các điều kiện để là hàng hóa (theo khái niệm của chính C.Mác). Đồng thời loại bỏ những “hàng hóa giả tạo” chỉ có dưới thể chế kinh tế thị trường TBCN như: buôn bán cơ chế, chức tước, phiếu bầu, bằng cấp, chiếm đoạt thành quả lao động của người khác, sống bằng thu nhập phi lao động trong khi có sức lao động,…
Trong số những gì cần phải thừa nhận là hàng hóa có hai đối tượng thuộc loại hàng hóa đặc biệt là sức lao động và các quyền về đất đai. Đó là lối thoát trong tháo gỡ rào cản khi tuyển chọn, khuyến khích nhân tài, trong tối ưu hóa di chuyển lao động (loại bỏ chế độ hộ khẩu đã quá lạc hậu) và ngăn ngừa nguy cơ “chảy máu chất xám” của nền kinh tế, phát triển thị trường các sản phẩm trí tuệ và chủ động trong tiếp thu, phát triển thành tựu của kinh tế tri thức.
Thể chế rõ ràng các quyền liên quan đến đất đai bằng cách “hàng hóa hóa” nó là điều kiện cơ bản để phát triển thị trường bất động sản và bảo vệ lợi ích của người sử dụng đất đã kết tinh lao động của mình vào đất và của toàn dân với tư cách là chủ sở hữu đất đai theo đúng Hiến pháp. Đồng thời tháo gỡ triệt để tận gốc những xung đột về lợi ích liên quan đến đất- nguyên nhân chủ yếu của tình trạng tiêu cực và khiếu kiện kéo dài hiện nay.
Dự thảo văn kiện Đại hội XII đã có một bước tiến rất rõ khi xác định “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế”. Nếu điều này được Đại hội thông qua thì ngay sau đó cả hệ thống chính trị và đặc biệt là các cơ quan nhà nước phải kiến tạo những giải pháp về thể chế để đẩy mạnh giải tỏa những gì đang kìm hãm việc phát huy động lực này. Phải tạo lập càng sớm càng tốt một thể chế kinh tế cho phép “mọi pháp nhân, thể nhân đều được làm tất cả những gì luật pháp không cấm”. Công dân với giấy chứng minh nhân dân hoàn toàn tự do hoạt động kinh tế trên toàn bộ lãnh thổ và trong bất cứ lúc nào, ở bất kỳ nơi nào cũng được sự bảo hộ, trợ giúp của nhà nước.
Vượt lên mọi vấn đề lý luận hiện nay là vấn đề làm sao để giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta? Không giải quyết được vấn đề này thì trên thực tế sẽ còn tồn tại những sai lệch vô hướng và những khuyết tật của các chủ thể tham gia vào nền KTTTĐHXHCN. Dựa trên sự phân tích về thể chế kinh tế thị trường TBCN cho thấy rằng, để không chệch hướng XHCN cần phải quán triệt sâu sắc và đầy đủ nguyên tắc tập trung, dân chủ trong xây dựng thể chế KTTTĐHXHCN ở nước ta. Đây cũng chính là nguyên tắc tổ chức của Đảng và của hệ thống chính trị. Sự thống nhất về nguyên tắc này tạo nên chiếc kim la bàn chỉ hướng để thẩm định việc xây dựng và vận hành thể chế KTTTĐHXHCN cũng như trong quá trình quản lý nhà nước về kinh tế hiện nay. Cụ thể là trong nền KTTTĐHXHCN lợi ích của đại đa số nhân dân (người lao động) phải luôn luôn được ưu tiên cao hơn lợi ích của thiểu số (có sức lao động). Một doanh nghiệp, một cá nhân làm đúng nguyên tắc này trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng có nghĩa là làm đúng định hướng XHCN, mặc dù về hình thức cụ thể nơi đó, con người đó làm ra những sản phẩm hàng hóa không khác gì các công ty, các nhà tư bản.