Cuộc đời một đại tá tình báo

Cuối năm 2009, NXB Quân đội nhân dân in và phát hành cuốn sách Lặng lẽ cùng thời gian - cuốn hồi ký về cuộc đời hoạt động  của Ðại tá tình báo Lê Văn Trọng và những người vợ. Lời đầu sách ông viết: "Bốn năm trở lại đây (từ tháng 12 năm 2005), trên bàn thờ nhà tôi có ba bát nhang là: Vợ tôi - tử tù Trà Thị Tâm, hy sinh năm 1973, vợ kế của tôi Phạm Thị Ðiểm (Sáu Dung) - thương tật tái phát, qua đời tháng 12 năm 2005 và chồng trước đây của Sáu Dung là tử tù Lê Long Châu, hy sinh năm 1958...". Năm nay đã 82 tuổi, trong lòng ông lúc nào cũng bùi ngùi nhớ những ngày tháng hoạt động cách mạng và những chiến thắng lừng lẫy của quân và dân ta để gìn giữ độc lập.

Những chặng đường cách mạng

Ðại tá tình báo Lê Văn Trọng giờ sống trong căn phòng ở nhà B1, khu tập thể Trung Tự (phố Phạm Ngọc Thạch - Hà Nội). Tiếp tôi là ông già ở tuổi 82, tuy đã cao tuổi, nhưng đôi mắt còn rực sáng, tinh anh. Ông Trọng sinh năm 1929, tại xã Ninh Trung, huyện Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa trong một gia đình có 12 người con, nghèo đói nên phải tha phương cầu thực. Từ năm 1945, khi mới 16 tuổi Lê Văn Trọng đã hoạt  động cách mạng. Năm 1954, ông tập kết ra Bắc trong đội hình Ðại đoàn 305, đóng quân ở nhiều nơi như Thanh Hóa, Nam Ðịnh, Thái Bình, Phú Thọ... Năm 1960, ông được cử đi học Trường Quân chính, lớp lý luận chính trị trung cao cấp. Năm 1963 tốt nghiệp, ông trải qua một đợt sát hạch âm thầm của Cục Tình báo. Cả lớp chỉ có mình ông qua và được tuyển chọn để hoạt động trong lòng địch.

Năm 1965, ông Trọng mang bí danh Lê Hiền, được giao nhiệm vụ lưới điệp báo theo dõi tình hình địch khu vực Vùng I chiến thuật ngụy, địa bàn từ Ðà Nẵng đến Huế rồi Quảng Trị, sau đó vào Sài Gòn. Ông bị bắt một lần vào năm 1971 ở xa lộ Biên Hòa (Ðồng Nai), trong người ông có một số tài liệu mật, một tấm thẻ căn cước giả. Tên cảnh sát trưởng của một trạm kiểm soát ra lệnh lục soát tư trang của ông. Rất may là chúng đã không lục soát ngăn bên hông. Không tìm thấy tài liệu mật, chúng giải ông về nhà giam Thủ Ðức. Bọn địch tình nghi ông là Cộng sản, là Việt cộng nằm vùng. Chúng hỏi: 'Mày sử dụng căn cước giả để làm gì?'. Lê Văn Trọng, lúc này mang căn cước với tên là Trịnh Hà trả lời: 'Ðể trốn lính'. Không khai thác được gì, chúng dẫn ông về nhà lao. Ðêm đó, lợi dụng lúc tù nhân đã ngủ, ông lén lấy cuốn sổ tài liệu trong người, nhai trong miệng cho nhừ nát rồi vo thành cục, nhét xuống đáy thùng rác. Những ngày sau đó, ông bị chúng dẫn đi hết nhà lao này đến nhà lao khác, từ Chi cảnh sát Thủ Ðức, Trung tâm thẩm vấn Gia Ðịnh, rồi khám Chí Hòa.

Ông Trọng kể: 'Ở khám Chí Hòa, tôi mang số tù 3F2-1394. Bọn địch tra tấn, hỏi cung, đánh đập chết đi sống lại không biết bao nhiêu lần với phương châm: 'Không có cũng đánh cho có'. Chúng dở hết 'võ' ra tra tấn. Ban đầu chúng dùng nước đổ vào mũi cho sặc, hết nước lạnh chúng lại quay ra đổ nước muối. Vừa làm chúng vừa hỏi: 'Nhiệm vụ của mày là gì?'. Tôi cắn răng không khai. Chúng lại dùng dùi cui đập vào các ống chân, ống tay. Ðiều có thể giúp tôi sống qua được những trận đòn là tinh thần cách mạng và người vợ Thanh Tâm yêu quý'.

Sau những ngày chịu tra tấn, toàn thân ông tím bầm, tay chân giập nát, tưởng như không thể nào chịu nổi, nhưng ông không khai nửa lời, cương quyết một mực nói mình mua căn cước giả chỉ là để trốn lính. Ðúng khi đó, ông được gia đình ông Phan Chín, làm nghề cắt tóc ở 181/4 Minh Mạng - nơi ông từng ở trọ cưu mang. Ông Chín đã chạy tiền thuê luật sư, đút lót cai tù để ông được trả tự do tạm thời. Tháng 8-1972, ông bị Tòa gọi đến xử lại, được luật sư Lê Tất Hào bào chữa. Ông bị phạt 45 ngày tù và chịu mọi án phí. Ðược tự do, ông lo làm lại căn cước và tích cực liên lạc với Trung ương để chờ cơ hội ra Hà Nội.

Ngày 21-3-1973, ông gặp được nữ phái viên Trung ương Sáu Dung (Phạm Thị Ðiểm) tại một cơ sở ở 123B đường Cống Quỳnh. Sáu Dung được Cục Tình báo cử, vượt Biển Ðông vào giúp đỡ Lê Văn Trọng. Sau đó bà về Cục thông báo tình hình, để Cục Tình báo chi viện cho Lê Văn Trọng.

Những người bạn đời - những chiến sĩ cách mạng

Vì công việc hoạt động tình báo phải di chuyển nhiều nơi, Lê Văn Trọng phải xa người vợ mà mình cưới đầu tiên để dốc sức cho công việc. Người vợ đầu tên là Ðoàn Thị Cảnh, cưới nhau đầu năm 1954. Ở bên nhau vừa tròn bảy ngày thì ông phải tạm biệt vợ, quê hương Vạn Ninh, Khánh Hòa ra đi hoạt động cách mạng.

Khi vào hoạt động ở Ðà Nẵng (năm 1965-1969), Lê Văn Trọng  đã phải chọn phương án lấy vợ để che mắt kẻ địch. Ông đã gặp cô chủ tiệm may tên Trà Thanh Tâm - một cô gái giỏi giang việc nhà và sớm tham gia cách mạng. Lê Hiền thật lòng tâm sự với người yêu rằng, mình đã có một đời vợ nhưng đã ly hôn. Thanh Tâm cũng tâm sự về một quá khứ đầy nước mắt của mình. Cô là người được cha mẹ tin yêu, nên quyết định lấy chồng của cô được cả song thân ủng hộ. Thế là đám cưới được tổ chức. Vợ chồng Thanh Tâm - Lê Hiền ra sức mở mang cơ nghiệp và bí mật hoạt động. Cưới được một thời gian, sau khi 'thử thách' chính vợ mình, Lê Hiền đề nghị với Cục Tình báo 'kết nạp' vợ vào mạng lưới tình báo, hoạt động tại Ðà Nẵng do mình chỉ huy.

Vào một đêm tháng 5-1968, một nhóm an ninh quân đội bất ngờ ập tới bắt Thanh Tâm với một lý do: 'Tuyên truyền chủ nghĩa Cộng sản'. Bằng bản lĩnh và sự khôn khéo trong đấu tranh, Thanh Tâm vượt qua được các màn tra tấn tinh thần của địch. Vì không có bằng chứng, Thanh Tâm được trả tự do. Rồi Thanh Tâm sinh con, đặt tên là Lê Văn Hùng và vẫn tiếp tục hoạt động. Tháng 6-1973, Thanh Tâm bế bé Hùng bắt xe đi Sài Gòn thăm bà con. Không ngờ, Thanh Tâm vừa xuống đến Sài Gòn thì bị bọn mật vụ của Cục An ninh quân đội Sài Gòn bắt cả hai mẹ con đưa về nhốt ở trại giam số 8, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Mục đích của chúng là bắt và tra tấn Thanh Tâm để tìm ra nơi ẩn náu của chồng. Thanh Tâm giữ trọn lòng sắt son, bà hy sinh sau bốn ngày bị tra tấn dã man. Lê Văn Hùng, lúc đó mới năm tuổi cũng phải ở tù với mẹ. Gia đình ông bà Tăng Thị Ðương - bố mẹ vợ Lê Văn Trọng vào Sài Gòn nhận xác con gái đem chôn và đón đứa cháu mồ côi về nuôi.

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh đoàn cán bộ tình báo phục vụ chiến dịch còn có người chiến sĩ tình báo gan dạ Sáu Dung. Trước đó, cuối năm 1974, Lê Văn Trọng đã gặp Sáu Dung tại Hà Nội. Ông gửi bà lá thư tay đến cho con trai Lê Văn Hùng, thông báo mình còn sống. Sáu Dung đi qua Ðà Nẵng đã gặp Lê Văn Hùng giữa TP Ðà Nẵng (vừa giải phóng). Biết cha còn sống, bé Hùng vui khôn xiết.

Sau ngày đất nước  thống nhất, vào tháng 7-1975, tại Hà Nội, Lê Văn Trọng và Sáu Dung gặp lại nhau. Sáu Dung cũng có một cảnh ngộ thương tâm, chồng bị địch bắt và tra tấn cho đến chết, các con bị thất lạc từ năm 1954 chưa biết sống chết ra sao. Hoàn cảnh đã khiến họ xích lại gần nhau. Ðược sự động viên, giúp đỡ của đồng đội, hai cựu binh bị địch bắt tù đày, hai thương binh đã xây dựng  tổ ấm để an ủi, giúp đỡ nhau trong phần đời còn lại.

Bà Sáu Dung đã mất năm 2005. Giờ  đây ông Trọng lặng lẽ sống ở khu nhà tập thể. Người vợ cả của ông, nay cũng đã già, sống ở Nha Trang. Con trai duy nhất của ông Trọng, cùng với bà Thanh Tâm (từng ở tù cùng mẹ lúc năm tuổi) đã thành đạt, thành lập một công ty, khá phát đạt. Ông Trọng chỉ có tâm nguyện là cầu mong cho đất nước ta no ấm, bình yên và phát triển.

Ký ức đẹp và đáng tự hào

Ðại tá Lê Văn Trọng kể rằng, hai người tử tù ông kể trong lời đầu cuốn sách Lặng lẽ cùng thời gian đều vì hoạt động cách mạng, bị địch tù đày, tra tấn cho đến chết. Giờ ở thời bình, vào ngày rằm, mồng một - mỗi lần thắp cây nhang lên ba bát nhang trên bàn thờ, y rằng đêm hôm đó ông thức chong đến sáng. Tất cả những kỷ niệm, những dấu ấn cuộc đời của ông cứ ập ào hiện hữu trở về. Ðó là gương mặt, tính cách các đồng chí đã gắn bó cùng chiến đấu, công tác trên mặt trận thầm lặng; là nỗi nhớ thương da diết những người thân yêu; là tình cảm quý trọng những người dân đã chấp nhận sẵn sàng hy sinh để che chở, bảo vệ ông trong vùng địch hậu. Là nỗi nhớ những địa danh nơi ông từng ở, đi qua với ngôi nhà, con hẻm, đường phố... Hiện tại, cuộc sống của ông gắn bó với gia đình nhỏ của người con trai duy nhất, có con dâu, cháu nội và một cô cháu gái ở Nha Trang ra. Ông vẫn thường xuyên tham gia hoạt động trong Hội Cựu chiến binh, vẫn liên hệ với các đồng chí, đồng đội, vẫn đi thăm thú một số nơi gắn bó máu thịt trong quá trình hoạt động cách mạng.

Ông Trọng tâm sự: 'Trong lòng tôi, cuộc kháng chiến vệ quốc hào hùng của dân tộc ta còn hiện diện rõ nét, với biết bao niềm tự hào. Ngày giải phóng đất nước giúp cho ông được gặp lại con trai và một số người họ hàng, giúp cho non sông gấm vóc của chúng ta thu về một mối. Những hy sinh mất mát của dân tộc ta đã được đền đáp xứng đáng, là nền độc lập tự do'.

Có thể bạn quan tâm