Chủ động đối mặt áp lực phòng vệ thương mại

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, phòng vệ thương mại đã trở thành “mặt trận” mới mà các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam buộc phải đối mặt. Tuy nhiên, rào cản thương mại không chỉ tạo thách thức mà còn là cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, củng cố vị thế trên thị trường quốc tế.
0:00 / 0:00
0:00
Thép và sản phẩm từ thép của Việt Nam thường xuyên phải đối mặt các cuộc điều tra phòng vệ thương mại từ một số thị trường xuất khẩu quan trọng, như Hoa Kỳ, châu Âu. Nguồn: HPG
Thép và sản phẩm từ thép của Việt Nam thường xuyên phải đối mặt các cuộc điều tra phòng vệ thương mại từ một số thị trường xuất khẩu quan trọng, như Hoa Kỳ, châu Âu. Nguồn: HPG

Dần quen với chuyện kiện tụng

Trong năm vừa qua, xuất khẩu tiếp tục trở thành một trong những động lực tăng trưởng kinh tế quan trọng của Việt Nam, với kim ngạch xuất khẩu ước tăng khoảng 14% so năm 2023. Sang năm 2025, Bộ Công thương tiếp tục đặt ra mục tiêu tăng trưởng khoảng 12%. Đây được đánh giá là mục tiêu đầy thách thức trong bối cảnh hoạt động xuất nhập khẩu còn đối mặt nhiều rủi ro, khó đoán định.

Theo Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công thương), tính đến cuối năm 2024, hàng hóa Việt Nam đã chịu điều tra trong khoảng 273 vụ việc phòng vệ thương mại tại 25 thị trường chủ lực, bao gồm cả những thị trường có hiệp định thương mại tự do với Việt Nam. Dẫn đầu trong việc áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng hóa Việt Nam chính là Hoa Kỳ, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam.

Ông Đỗ Ngọc Hưng, Tham tán thương mại, Trưởng Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cho biết, chính quyền Hoa Kỳ đã gia tăng các biện pháp phòng vệ thương mại, đồng thời áp dụng cả điều tra phá giá và trợ cấp, thậm chí đưa vào các yếu tố mới, như trợ cấp xuyên biên giới, các quy định về lao động, môi trường… khiến doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam gặp nhiều khó khăn.

Đưa ra những phân tích cụ thể, ông Hưng dự báo, giai đoạn sau khi Tổng thống đắc cử Donald Trump nhậm chức sẽ là giai đoạn khá khó khăn đối với các nước xuất khẩu có thặng dư thương mại lớn sang Hoa Kỳ, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt, là ngành công nghiệp nền tảng, vật liệu đầu vào cho các ngành kinh tế quan trọng như cơ khí chế tạo, công nghiệp hỗ trợ, thép và sản phẩm thép…

Tương tự thị trường Hoa Kỳ, ông Đinh Quốc Thái, Tổng Thư ký Hiệp hội Thép Việt Nam cho hay, tại thị trường châu Âu, thép cũng là sản phẩm thường xuyên có liên quan đến các vụ việc phòng vệ thương mại. Ngay từ năm 2004, Ủy ban châu Âu (EC) đã tiến hành khởi kiện chống bán phá giá đối với mặt hàng thép ống của Việt Nam. Từ đó đến nay, theo thống kê, thị trường nước ngoài đã kiện phòng vệ thương mại đối với thép xuất khẩu của Việt Nam tổng số 81 vụ việc ở hầu hết các thị trường chính xuất khẩu thép của Việt Nam. Tuy nhiên, sau một thời gian dài liên tục đối mặt các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại, doanh nghiệp Việt Nam đã cơ bản… quen với quy trình kiện tụng.

Cũng nhờ việc dần bắt nhịp được với yêu cầu của cơ quan điều tra các nước, sự chuẩn bị kỹ càng của doanh nghiệp và sự giúp đỡ của Bộ Công thương, nhất là Cục Phòng vệ thương mại, nhiều vụ việc đã có được kết quả đáng ghi nhận.

Qua các vụ việc kháng kiện, ông Đinh Quốc Thái tự tin, doanh nghiệp thép Việt Nam đã dần quen với chuyện kiện tụng và có thể chủ động trong việc ứng phó các vụ việc điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp, chống lẩn tránh thuế hay tự vệ.

Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam đã chủ động rà soát thường xuyên kế hoạch hoạt động xuất khẩu, để có thể thụ hưởng ưu đãi từ các hiệp định thương mại tự do mà vẫn tránh được những cuộc điều tra phòng vệ thương mại”.

Ông ĐINH QUỐC THÁI, Tổng Thư ký Hiệp hội Thép Việt Nam

Cơ hội nâng cao năng lực cạnh tranh

Thực tế, các biện pháp phòng vệ thương mại thường nhằm vào vấn đề gian lận xuất xứ, phá giá hoặc không tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường, lao động... Trong bối cảnh đó, các chuyên gia khuyến nghị, các doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng các yêu cầu khắt khe bởi điều này không chỉ giúp doanh nghiệp vượt qua các rào cản pháp lý mà còn tạo dựng niềm tin với người tiêu dùng và đối tác tại thị trường nhập khẩu.

Bên cạnh đó, hợp tác minh bạch với cơ quan điều tra là một chiến lược cần thiết. Theo bà Nguyễn Yến Ngọc, Trưởng phòng Xử lý Phòng vệ thương mại nước ngoài (Cục Phòng vệ thương mại, Bộ Công thương), nếu doanh nghiệp chủ động cung cấp thông tin, tham gia tích cực quá trình điều tra, mức thuế áp dụng sẽ thường thấp hơn đáng kể so các đối thủ cạnh tranh. Điều này không chỉ giúp giảm tổn thất mà còn tạo lợi thế so sánh. Mặt khác, doanh nghiệp cần đa dạng hóa thị trường và sản phẩm xuất khẩu, nhằm mở rộng cơ hội kinh doanh.

Với quan điểm việc tăng cường tỷ lệ nội địa hóa và minh bạch hóa xuất xứ đóng vai trò quan trọng, ông Đỗ Ngọc Hưng cho rằng, doanh nghiệp cần sử dụng nguyên liệu từ các nguồn không bị điều tra hoặc tăng tỷ lệ nội địa hóa trong sản phẩm. Điều này giúp giảm nguy cơ bị áp thuế chống lẩn tránh trong tương lai.

Thí dụ điển hình trong việc ứng phó các biện pháp phòng vệ thương mại là mặt hàng tôm nước ấm. Dù bị điều tra các chính sách trợ cấp từ Chính phủ Việt Nam nhưng kết quả cuối cùng của vụ việc lại là: sản phẩm này được hưởng mức thuế 2,84%, thấp hơn nhiều so những nước cũng bị điều tra như Ấn Độ hay Ecuador. Đây là một yếu tố giúp cho xuất khẩu thủy sản trong năm 2024 có sự tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt là ngành tôm.

Thực tế minh chứng, Nhà nước đóng vai trò hỗ trợ quan trọng trong việc định hướng và bảo vệ doanh nghiệp. Theo Cục trưởng Phòng vệ thương mại Trịnh Anh Tuấn, thay vì bi quan, doanh nghiệp nên coi đây là cơ hội để tái cấu trúc, cải thiện quy trình sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm. Ngoài ra, các doanh nghiệp nên đầu tư mạnh vào nghiên cứu và phát triển, áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về môi trường, lao động để đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe từ các nước nhập khẩu.

Ông Trịnh Anh Tuấn khuyến nghị, doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng thuộc danh sách cảnh báo sớm về rủi ro bị điều tra phòng vệ thương mại, như gỗ dán, thép cán nóng, cáp thép dự ứng lực, ống thép hàn... cần tăng cường theo dõi, tìm hiểu các quy định của nước nhập khẩu và phối hợp chặt chẽ với cơ quan chức năng để đối phó hiệu quả với các rủi ro này.