Tôi ở với ông bà thời gian ngắn ấy, nhưng nhớ mẹ kinh khủng, cứ tha thủi đi ra ngắm đồng, đi vào nhìn bếp. Đồng Quanh rất rộng, bao quanh làng, quanh năm xăm xắp nước. Người ta gieo mạ ở nơi khác, chờ khi lúa lên lưng lửng mới mang ra gieo xuống đồng, đó là lúc nước cạn nhất, nhưng cũng phải đến đầu gối. Đồng rộng. Nước trắng mênh mang. Xa xa vài rặng cây nhô lên như bức bình phong. Trên bờ, tre cọ thân vào nhau cọt kẹt.
Vui nhất là khi được ông cho lên thuyền đi lượm cá. Thuyền đan từ tre, quét hắc ín. Ông chống sào lướt nhẹ. Đêm trước, ông thả thính vào vó. Sáng ra, vài con cá rô thia, vài con lươn, chạch, cua, cà cuống, niềng niễng… đã mò vào. Nhấc vó lên, thế là có bữa trưa cá đồng kho khế với vỏ quýt. Những con cá nhỏ được ông thả về nước, vui tưng tưng như gặp mẹ.
Những con cà cuống thơm lừng. Những con niềng niễng cũng khá thơm, tất nhiên không thể so với cà cuống.
Ông tôi bắt cá chỉ đủ ăn. Bẫy cò cũng chỉ đủ cho ông bà ăn, đôi khi cho cháu vài đôi chim. Chưa bao giờ tôi thấy ông bà bẫy cò bắt cá để bán. Dường như không chỉ ông bà mà cả làng đều muốn gìn giữ cánh đồng Quanh đẹp đẽ này cho con cháu.
Nhà ông bà đắp nền bằng đất, chung quanh che bằng tre đan hoặc phên tre trát đất. Bà nằm gian trong. Tôi với ông nằm gian ngoài, đóng kín hết cửa mà vẫn nhìn thấy nhì nhằng sấm chớp trên nền trời, tiếng cóc g rừ g rừ trong gậm giường, tiếng ễnh ương vang vọng.
Vườn ông nhiều hoa trái. Góc vườn có cây dừa to cao, quả sai, ăn không xuể. Góc kia là cây sắn trà, cạnh cây chay cho bà vỏ để ăn trầu, cho lũ trẻ những quả ngoài xanh trong đỏ ngọt thanh.
Ký ức về ông sao cứ đượm buồn. Mà khuôn mặt ông cũng buồn nhiều hơn vui. Tôi nhớ có lần ông và một vài người làng cáng ông cậu (em ruột của ông) đi viện. Hai người hai xe đạp nối với nhau bằng thân tre, trên đó buộc cái võng dù lót chăn cho ông cậu nằm, cứ thế dắt xe đi 3km tới bệnh viện. Ông qua nhà, hình như hỏi vay mẹ tôi ít tiền để lo cho em ruột. Mẹ chỉ có một ít đưa ông. Ông nói: Cha mượn nha. Nhưng mặt ông trông khổ sở lắm. Lại có bữa mùa hè, ông đạp xe ra thăm chúng tôi. Ông ngồi chưa ấm chỗ, tôi và đứa em đã lục túi áo lấy tiền của ông để đi mua kẹo ở quán bà nội. Bà nội đưa tiền trả lại ông: Cháu nó dại quá, sao lại lấy tiền của ông để mua ở quán bà?
Ông giỏi chữ Hán, giỏi tử vi, luôn trầm lặng và nhân hậu. Giá như hồi ấy tôi lớn hơn thì đã học được ở ông rất nhiều điều.
Ông sống đúng nghĩa cuộc đời là cõi tạm. Ông ra đi được một thời gian, mái sập, tường bong, nền đất nhà sụt xuống. Ông cậu tôi mượn vườn trồng rau, sau đó “tiện thể” làm sổ đỏ mảnh đất ấy đứng tên ông cậu. Bố mẹ rất buồn phiền, vì mẹ tôi là con duy nhất của ông bà, phải là người được thừa kế. Trong khi đó, gia đình ông cậu cũng thuộc hàng khá giả trong làng, trong xã. Lòng tham của con người khó lường, khó xử. Rốt cục, mảnh đất ấy được tòa xử là trả lại cho Nhà nước, giao xã quản lý.
Chúng tôi tiếc. Mỗi lần về qua làng, đi qua vườn cũ của ông, cả nhà đều xúc động. Thằng em tôi có điều kiện và cũng hiểu mẹ rất nhớ khu vườn, đòi mua lại mảnh đất ấy. Nhưng mẹ bảo: Giừ (bây giờ) mua, biết có đủ sức mà chăm mà trông không? Mà cuộc đời cũng như là cõi tạm thôi, giữ nhiều mần chi.