Việt Nam tiếp tục tăng trưởng cao

Với mức tăng trưởng 6,93%, Việt Nam là quốc gia tăng trưởng kinh tế (GDP) cao nhất khu vực ASEAN-6 trong quý II/2024. Trên cơ sở này, Việt Nam được dự báo sẽ có khả năng trở thành nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất ASEAN trong năm 2024.
Lượng du khách quốc tế tăng cao trong thời gian qua. Ảnh: NAM ANH
Lượng du khách quốc tế tăng cao trong thời gian qua. Ảnh: NAM ANH

Với mức tăng 6,93%, GDP của Việt Nam đã vượt xa các kỳ vọng trước đó và cao hơn kịch bản điều hành của Chính phủ (5,58% - 6,32%) trong quý II/2024. Thậm chí, với mức tăng này, Việt Nam đã vươn lên để trở thành nền kinh tế có mức tăng trưởng cao nhất trong khu vực (Philippines, Malaysia, Indonesia, Singapore và Thailand có mức tăng GDP lần lượt là 6,3%; 5,9%; 5,05%; 2,9%; 2,3%).

Có khả năng dẫn đầu khu vực

Tại buổi họp báo công bố Báo cáo điểm lại - Cập nhật tình hình kinh tế Việt Nam cuối tháng 8 vừa qua, bà Dorsati Madani, chuyên gia kinh tế cao cấp của Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá, trong nửa đầu năm, GDP của Việt Nam tăng trưởng 6,4%, cao hơn mức tăng trưởng 5% trong nửa đầu năm 2023, nhờ xuất khẩu các mặt hàng chế biến - chế tạo được phục hồi, cũng như mức đầu tư và tiêu dùng cao hơn. Cụ thể, xuất nhập khẩu hàng hóa tăng nhanh hơn so với dự báo cho nửa đầu năm 2024, nhờ sức cầu bên ngoài mạnh hơn, trong đó xuất khẩu và nhập khẩu tăng lần lượt 16,9% và 17% so cùng kỳ năm trước.

Trên phương diện sản xuất, sản lượng công nghiệp chế biến - chế tạo tăng trưởng 7% trên nền xuất phát điểm thấp, là động lực tăng trưởng cho cả năm, đóng góp đến 1/4 tăng trưởng GDP. Trong khi dịch vụ đóng góp hơn 1/2 cho tăng trưởng GDP, tăng đến 7,4%. Ngoài ra, các dịch vụ liên quan đến xuất khẩu như vận tải và kho bãi được hưởng lợi do xuất khẩu hàng hóa phục hồi. Đồng thời, lĩnh vực nhà hàng - khách sạn cùng tăng trưởng trở lại, khi số lượng du khách quốc tế đạt 8,8 triệu lượt trong tháng 6, cao hơn lượng du khách ghi nhận trước đại dịch Covid-19.

Về triển vọng, WB cho rằng, trong điều kiện xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng và bất động sản có dấu hiệu phục hồi (sau khi giải quyết được tình trạng đóng băng thị trường trái phiếu doanh nghiệp và Luật Đất đai có hiệu lực từ tháng 8), nhu cầu trong nước sẽ vững lên vào nửa cuối năm 2024 khi tâm lý nhà đầu tư và người tiêu dùng được cải thiện. “Nhờ sự phục hồi xuất khẩu các mặt hàng chế biến - chế tạo, du lịch, tiêu dùng và đầu tư, kinh tế Việt Nam có thể tăng trưởng 6,1% năm 2024 và 6,5% trong năm 2025 và 2026, cao hơn so với mức hơn 5% của năm 2023”, bà Dorsati Madani dự báo.

Còn trong Báo cáo Triển vọng phát triển châu Á tháng 7, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) dự báo, tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2024 có khả năng sẽ dẫn đầu khu vực (cùng với Philippines) với mức tăng GDP 6% nhờ sự phục hồi mạnh mẽ của cả nhập khẩu và xuất khẩu, sự hồi phục của nhu cầu nội địa khi chính sách tiền tệ vẫn duy trì ở mức nới lỏng. Ngoài ra, tăng trưởng được hỗ trợ bởi các biện pháp tài khóa như việc tiếp tục giảm 2% thuế giá trị gia tăng và các nỗ lực để thực hiện tốt hơn đầu tư công. Theo sau là Indonesia với mức tăng trưởng dự báo sẽ đạt 5% trong năm 2024. Tiếp theo là Malaysia, Thailand và Singapore, với mức tăng trưởng được dự báo lần lượt là 4,5%, 2,6% và 2,4% trong năm nay.

Những thách thức đến từ bên ngoài

Tuy vậy, chỉ ra những thách thức đến từ bên ngoài, ông Shantanu Chakraborty, Giám đốc Quốc gia ADB Việt Nam cho biết, nhu cầu toàn cầu suy giảm do tăng trưởng toàn cầu chậm lại, đặc biệt ở các nước đối tác thương mại lớn của Việt Nam và căng thẳng chính trị trên thế giới vẫn còn tiếp diễn. Cả hai quá trình này sẽ làm chậm lại quá trình phục hồi tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam. Ngoài ra, tốc độ bình thường hóa lãi suất ở thị trường Mỹ và các nền kinh tế tiên tiến khác sẽ tác động lên tỷ giá hối đoái của Việt Nam.

Trong khi đó, những năm gần đây tốc độ tăng trưởng chậm đã bộc lộ rủi ro về tính dễ đổ vỡ của cấu trúc nền kinh tế Việt Nam như phụ thuộc vào công nghiệp chế biến - chế tạo và xuất khẩu của khối FDI, thị trường vốn còn non trẻ và sự phụ thuộc quá mức vào tín dụng ngân hàng. “Nếu những rủi ro này được giải quyết kịp thời thì Việt Nam có thể đạt được tăng trưởng mạnh mẽ hơn. Vì vậy, Chính phủ cần phải kết hợp cả hỗ trợ tăng trưởng trong ngắn hạn để thúc đẩy nhu cầu trong nước với biện pháp trong dài hạn để giúp Việt Nam tăng trưởng vững hơn”, Giám đốc Quốc gia ADB Việt Nam khuyến nghị.

Còn theo bà Dorsati Madani, chuyên gia kinh tế cao cấp của WB, một trong những rủi ro chính đối với tăng trưởng kinh tế là yếu tố bất định của tăng trưởng kinh tế toàn cầu có thể thấp hơn dự kiến, nhất là tăng trưởng của những đối tác thương mại lớn của Việt Nam như Mỹ, Liên minh châu Âu và Trung Quốc. Những diễn biến đó có thể ảnh hưởng đến xuất khẩu các mặt hàng chế biến - chế tạo của Việt Nam và ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng.

Trong nước, sự mất ổn định của kinh tế vi mô có thể có tác động tiêu cực đến niềm tin của người tiêu dùng và các nhà đầu tư, ảnh hưởng đến tiêu dùng và đầu tư. Thị trường bất động sản có thể hồi phục lâu hơn dự kiến, tác động xấu đến đầu tư của khu vực tư nhân. Nếu chất lượng tài sản của các ngân hàng tiếp tục yếu đi, năng lực cho vay của các ngân hàng có thể bị suy giảm.

Do đó, cần đẩy mạnh đầu tư công để vừa kích cầu ngắn hạn, đồng thời góp phần giải quyết vấn đề thiếu hụt hạ tầng - đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng, giao thông, vận chuyển hàng hóa (logistics) - vốn đang là những nút thắt cản trở tăng trưởng. Bên cạnh đó, cần theo dõi sát chất lượng tài sản của các ngân hàng do nợ xấu gia tăng. "Để duy trì đà tăng trưởng từ nay đến cuối năm và các năm tiếp theo, các cấp có thẩm quyền cần tiếp tục cải cách thể chế, đẩy mạnh đầu tư công, đồng thời quản lý, giám sát các rủi ro trong thị trường tài chính", vị chuyên gia WB khuyến nghị.

Ở góc nhìn lạc quan hơn, TS Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV cho rằng, GDP quý III sẽ tiếp tục khả quan nhờ các yếu tố rủi ro bên ngoài được dự báo và trong tầm kiểm soát. Cùng với đó, các động lực tăng trưởng cả truyền thống và mới được khai thác, phát huy hiệu quả cao hơn; và kinh tế vĩ mô tiếp tục duy trì ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, niềm tin của doanh nghiệp và người dân được củng cố... Vì vậy, kinh tế Việt Nam có thể có kịch bản tốt nhất ở mức tăng trưởng GDP 7%.

Tuy vậy, để đạt được kết quả này, các bộ, ngành, địa phương phải tiếp tục thực hiện nhất quán Nghị quyết 01, 02 của Thủ tướng Chính phủ, với rất nhiều chương trình, giải pháp, biện pháp cụ thể đối với từng lĩnh vực ngành nghề khác nhau. Trong đó, quyết liệt hơn nữa trong thúc đẩy giải ngân đầu tư công vì đây vẫn là kênh dẫn vốn và kênh tăng trưởng quan trọng của nền kinh tế, tạo sự lan tỏa để thu hút nguồn lực đầu tư của tư nhân trong và ngoài nước. Ngoài ra, cần bảo đảm thực thi những gói hỗ trợ hiệu quả - mặt thứ nhất hỗ trợ người dân và doanh nghiệp vượt khó, mặt thứ hai là nuôi dưỡng nguồn thu trong tương lai và mặt thứ ba là đóng góp vào tăng trưởng của nền kinh tế vì khối doanh nghiệp và tiêu dùng luôn có đóng góp quan trọng cho tăng trưởng.