Trở lại Phà Coóng
15 năm về trước ngồi nghe tâm sự buồn của cô giáo “cắm bản” Lê Thị Châu: “Đã là năm thứ 10 em dạy ở Bắc Lý, em lên đây “cắm” bản, nhiều đêm thui thủi một mình buồn khóc, khóc chán rồi đành nghĩ cách đem rượu ra ngậm. Ngậm rồi nuốt, mỗi đêm một chút đến nghiện lúc nào không hay...”.
Bí thư Huyện ủy Kỳ Sơn Vi Hòe cùng Trưởng phòng Giáo dục và Đào tạo Kỳ Sơn Nguyễn Hồng Hoa động viên, bây giờ vào Bắc Lý chỉ tính bằng giờ chứ không phải tính bằng ngày đường như trước nữa. Đường vào được mở rộng láng nhựa, con dốc Phà Bún được bạt thấp cho ô-tô chở khách ngày một chuyến từ thị trấn Mường Xén leo lên vào tận Bắc Lý tụt xuống Mỹ Lý men theo lòng hồ thủy điện Bản Vẽ xuôi tận xã Nhôn Mai, huyện Tương Dương. Đường mở, điện kéo vào mang văn minh đến các vùng bản. Cơ sở vật chất các điểm trường ở Bắc Lý cũng được tăng cường khang trang hơn. Tôi mừng vui khi nghe Hiệu trưởng Trường tiểu học Bắc Lý 2 Doãn Chí Trung cho hay: “Đường lên Phà Coóng bây giờ đã đi được bằng xe máy, mùa này chỉ mất 30 phút không lo bộ. Tuy nhiên, vào mùa mưa, đường vào Phà Coóng mất hơn một buổi đẩy xe nhiều hơn đi xe. Mười lăm năm trôi qua, những ai yếu bóng vía sẽ không có gan trở lại thêm một lần nữa miền đất heo hút, quanh năm mây đen xếp đống phủ kín ở một trong những địa danh cực bắc xa xôi nhất của huyện rẻo cao biên giới Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, nếu cứ nghĩ chuyện không tưởng ô-tô sẽ vào đến các xã cực bắc heo hút nhất như Keng Đu, Đoọc Mạy, Mỹ Lý... và Bắc Lý, nơi mà cô Lê Thị Châu cùng các đồng nghiệp nhiều năm “cắm” bản giữa non ngàn này. Bởi ngày trước, từ thị trấn Mường Xén xuyên rừng theo con đường độc đạo chênh vênh dài 45 km, leo con dốc Phà Bún dài những 8 km, ba ngày ròng rã lội bộ, “hiến” không biết bao nhiêu giọt máu cho lũ sên vắt tại dốc Phà Bún mới lết đến trung tâm xã Bắc Lý. Và từ trung tâm xã đến Phà Coóng, bản của người Khơ Mú (gọi theo nghĩa tiếng Thái là nơi hội tụ xếp chất ngất những đống mây) phải vượt rừng mất 45 phút nữa mới đến nơi cô Châu dạy. Ngửng mặt lên đã thấy những đám mây xếp đống trên những đỉnh núi chon von những tưởng chỉ cần với tay sẽ chạm trời.
Lên đến nơi hỏi thăm, được biết cô Lê Thị Châu đã rời Phà Coóng từ lâu. Không biết số phận của cô Châu bây giờ ra sao? Người tiếp quản cô Lê Thị Châu sau đó là ai phải lục lại hồ sơ của nhà trường mới rõ. Còn bây giờ tại điểm trường lẻ Phà Coóng là cô Nguyễn Thị Hiền, 28 tuổi, quê ở xã Trung Sơn, huyện Đô Lương.
Năm nay là năm thứ 8 cô Hiền dạy chữ ở xã miền núi biên giới đặc biệt khó khăn Bắc Lý này. Cô cho biết, sau bảy năm dạy ở các bản đều xa như Nà Kho, Khăm 1, và bản Khăm 2, năm học 2018-2019 này lại được nhà trường điều chuyển về dạy ở bản Phà Coóng, điểm trường với 16 trẻ đang học mầm non và 5 trẻ học lớp 1 tại điểm trường mầm non - tiểu học tại bản. Vậy là hơn Châu ngày trước, không phải thui thủi một mình mà bây giờ còn có thêm một cô giáo mầm non làm bạn. Không còn phải ngồi buồn một mình, giữa giờ dạy, cô còn tranh thủ giúp cô giáo mầm non nấu bữa trưa cho lũ trẻ mẫu giáo bán trú. Hết giờ dạy, cô tranh thủ trồng rau, nuôi gà. Bản không có hàng quán, cô phải tự cung, tự cấp trồng rau nuôi gà phục vụ cuộc sống và thêm vào bữa ăn nghèo nàn thiếu dinh dưỡng của các học trò. Thức ăn hằng ngày của cô là vừng lạc, họa hoằn lắm mới có quả trứng, thức ăn tươi từ tăng gia. Phà Coóng vẫn chưa kéo được điện lưới quốc gia nên buổi tối cô vẫn phải soạn bài dưới ánh đèn dầu tù mù.
Mây sẽ tan trên Phà Coóng
Hoàn cảnh riêng tư của cô Hiền cũng không xuôi chiều mát mái như cô Châu trước đây là bao. Cô ngậm ngùi kể: Năm 2013, cô lập gia đình. Sau cưới hai tháng và mang thai hai tháng thì chồng mất vì bạo bệnh… Con gái vừa vài tháng tuổi, cô nuốt nước mắt vào trong gửi lại con nhờ mẹ đẻ chăm nuôi để tiếp tục lên Kỳ Sơn dạy học. Mới rồi, cô Hiền đi bước nữa. Cô chia sẻ : “Em và chồng đến với nhau vì người cùng cảnh bố mất sớm, nhà con một; vợ mất sớm, có một con trai năm nay tám tuổi là người cùng quê, chỉ cách nhà hai cây số. Nay, mẹ em đã ở tuổi “xưa nay hiếm” già yếu sau ba lần tai biến. Căn nhà gỗ ở quê nhiều năm xuống cấp, thương mẹ, thương con, Em liều vay ngân hàng 300 triệu đồng làm nhà mới cho mẹ và con không phải lo vào mùa mưa bão.
Đồng lương mỗi tháng bảy triệu đồng của cô được dè xẻn chia làm ba phần: phần lớn, bốn triệu đồng dành để trả lãi suất cho ngân hàng, một phần để nuôi mẹ nuôi con, phần ít ỏi còn lại là nuôi mình và tiền lộ phí thi thoảng về thăm mẹ thăm con. Cô Hiền rơm rớm nước mắt: “ Nhiều đêm nhớ con lắm! Con em thiệt thòi lắm, ba năm rồi vẫn chưa một lần em được đưa con đi khai giảng hay họp phụ huynh. Thương con, tủi phận nhưng nhìn lũ trẻ nghèo nơi bản làng heo hút ni đang cần mình nên em như dồn hết tình thương cho các học trò. Mong sao học trò miền núi nhận được nhiều sự quan tâm, giúp đỡ hơn”.
Mười lăm năm rồi Phà Coóng vẫn vậy, một bản nghèo với 30 hộ người Khơ Mú. Khi mọi chuyện đang bộn bề khốn khó thì việc học của con cháu, các phụ huynh đều phó mặc cho các cô. Cô giáo ở đây không chỉ lo việc dạy chữ trên lớp, còn phải chăm chút học trò từ miếng ăn, quyển vở, tấm áo. Anh Mong Phò Hiệp, 41 tuổi, có con đang học tại điểm trường Phà Coóng cho biết: “Bà con dân bản suốt ngày “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, lam lũ trên rẫy, may nhờ có cô chăm lo cho con. Cô Hiền tốt lắm! Cô không chỉ dạy cho các cháu biết chữ, biết làm điều tốt, về nhà biết giúp bố mẹ. Cảm ơn cô rất nhiều lắm! Hiệu trưởng Trường tiểu học Bắc Lý 2 Thầy giáo Doãn Chí Trung chia sẻ: “Cô Nguyễn Thị Hiền là giáo viên trẻ, có đạo đức và năng lực tốt, ý thức trách nhiệm cao, luôn vì học trò, đã nhiều lần được UBND huyện và ngành giáo dục huyện Kỳ Sơn khen thưởng”.
Vui khi nghe ông hiệu trưởng nhận xét về cô giáo Nguyễn Thị Hiền, nhưng lòng cũng không tránh khỏi chùng xuống khi biết về hoàn cảnh của cô vừa kể trong chiều tím hoàng hôn của miền biên viễn. Trước khi chia tay các thầy, cô Bắc Lý, tôi thật sự mong đừng lặp lại phiên bản cũ cô Lê Thị Châu với lời tâm sự buồn… Mong câu chuyện xưa chỉ là quá vãng.