Công bằng nhưng phải bền vững

Việc mở rộng danh mục thuốc và quyền lợi bảo hiểm y tế từ năm 2026 được kỳ vọng sẽ giảm gánh nặng chi phí điều trị, giúp người bệnh, đặc biệt là các nhóm mắc bệnh nặng, bệnh mạn tính, tiếp cận tốt hơn với dịch vụ y tế hiện đại.

Mở rộng quyền lợi BHYT là "phao cứu sinh" cho bệnh nhân nghèo.
Mở rộng quyền lợi BHYT là "phao cứu sinh" cho bệnh nhân nghèo.

Tuy nhiên, bên cạnh yêu cầu bảo đảm công bằng trong chăm sóc sức khỏe, bài toán đặt ra là làm thế nào để việc nâng mức hưởng bảo hiểm y tế được thực hiện theo lộ trình hợp lý, vừa đáp ứng nhu cầu thực tiễn của người dân, vừa bảo đảm an toàn, bền vững cho quỹ bảo hiểm y tế.

Bảo hiểm y tế và những khoảng trống

Tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV, Nghị quyết về một số cơ chế, chính sách đặc biệt tạo đột phá cho công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân của Quốc hội đã được thông qua, có hiệu lực từ ngày 1/1/2026. Trong đó, nhiều nội dung quan trọng liên quan trực tiếp đến người tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) như: Tăng tỷ lệ và mức thanh toán chi phí khám, chữa bệnh; mở rộng quyền lợi, danh mục thuốc, dịch vụ kỹ thuật, phương thức điều trị mới được quỹ BHYT chi trả.

Đây được xem là hành lang pháp lý quan trọng để BHYT không chỉ dừng lại ở mục tiêu “bao phủ về số lượng”, mà từng bước nâng cao chất lượng và chiều sâu của chính sách, đáp ứng tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe ngày càng đa dạng của người dân.

Sau hơn 30 năm triển khai, BHYT đã khẳng định vai trò là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội, với tỷ lệ bao phủ đạt hơn 93% dân số. Hàng triệu lượt người bệnh mỗi năm được quỹ BHYT chi trả chi phí khám chữa bệnh, góp phần quan trọng trong việc bảo đảm an sinh và ổn định xã hội. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, với các bệnh nặng, bệnh mạn tính, đặc biệt là ung thư, tim mạch, đái tháo đường, suy thận mạn…, chi phí điều trị vẫn là gánh nặng lớn đối với nhiều gia đình. Không ít trường hợp, dù có thẻ BHYT, người bệnh vẫn phải tự chi trả hàng chục triệu đồng mỗi tháng cho thuốc ngoài danh mục, xét nghiệm chuyên sâu hoặc các dịch vụ kỹ thuật cao.

Với người lao động tự do, nông dân, người dân vùng sâu, vùng xa, điều trị kéo dài dễ đẩy gia đình vào vòng xoáy khó khăn, thậm chí rơi vào tình trạng “nghèo hóa vì bệnh tật”. Đây chính là khoảng trống lớn đặt ra cho mục tiêu công bằng trong chăm sóc sức khỏe.

Trường hợp của anh N (52 tuổi), lao động tự do tại một tỉnh miền trung, là minh chứng rõ nét. Được chẩn đoán ung thư phổi giai đoạn muộn, anh điều trị tại bệnh viện tuyến T.Ư và tham gia BHYT hộ gia đình với mức hưởng 80%. Tuy nhiên, thuốc điều trị đích phù hợp với tình trạng bệnh của anh N là loại thuốc giúp kéo dài thời gian sống và nâng cao chất lượng sống lại chưa thuộc danh mục BHYT chi trả. Mỗi tháng, chi phí thuốc dao động từ 40-60 triệu đồng, trong khi thời gian điều trị kéo dài nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Cộng thêm chi phí xét nghiệm chuyên sâu, thuốc hỗ trợ, sinh hoạt và đi lại khi điều trị xa nhà, tổng chi phí thực tế vượt xa khả năng của gia đình.

Trong bối cảnh người bệnh không còn khả năng lao động, thu nhập bị gián đoạn, nhiều gia đình buộc phải vay mượn, bán tài sản để duy trì điều trị. Thực tế này cho thấy, dù BHYT đã phát huy vai trò chia sẻ rủi ro, song việc mở rộng danh mục thuốc và quyền lợi vẫn là yêu cầu cấp thiết.

Theo bác sĩ Lê Chí Hiếu, Phó trưởng Khoa Ung bướu, Bệnh viện Hữu Nghị, nhiều loại thuốc ung thư dù đã được BHYT chi trả vẫn khiến bệnh nhân phải bỏ ra vài chục triệu đồng mỗi đợt. Nếu không có BHYT, một phác đồ điều trị kéo dài một năm có thể tiêu tốn tới 300-400 triệu đồng. “Những năm gần đây, y học đã có nhiều tiến bộ, đặc biệt là các thuốc điều trị đích, thuốc miễn dịch. Tuy nhiên, chi phí cao trong khi phạm vi chi trả của BHYT chưa theo kịp khiến nhiều bệnh nhân không thể tiếp cận đầy đủ các phương pháp điều trị tối ưu”, bác sĩ Hiếu nhận định.

Theo ông, việc từng bước mở rộng danh mục thuốc, điều chỉnh mức hưởng BHYT sẽ giúp giảm chi trả trực tiếp từ túi người bệnh, cải thiện khả năng tuân thủ điều trị, từ đó nâng cao hiệu quả điều trị và chất lượng sống.

Bài toán quỹ BHYT

Ở góc độ người trong cuộc, nhiều bệnh nhân coi việc mở rộng quyền lợi BHYT là “phao cứu sinh”. Tuy nhiên, không ít người cũng bày tỏ sự thấu hiểu với khó khăn trong cân đối Quỹ BHYT.

Chị H (47 tuổi), bệnh nhân ung thư vú đang điều trị duy trì tại Bệnh viện K T.Ư chia sẻ: “Chúng tôi rất mong thuốc mới sớm được BHYT chi trả. Nhưng người bệnh cũng hiểu, cần có lộ trình rõ ràng, ưu tiên đúng đối tượng, để vừa giúp người bệnh, vừa không gây áp lực quá lớn cho quỹ”. Theo chị H, nếu điều trị sớm, đúng phác đồ, bệnh ổn định hơn, số lần nhập viện giảm, thì về lâu dài cũng giúp tiết kiệm chi phí cho cả người bệnh và hệ thống y tế.

PGS, TS Trần Văn Dũng, chuyên gia kinh tế y tế cho rằng, mở rộng quyền lợi BHYT là xu thế tất yếu, song cần triển khai có chọn lọc. “Không phải thuốc mới nào cũng nên đưa ngay vào danh mục. Cần ưu tiên thuốc có hiệu quả lâm sàng rõ ràng, tỷ lệ chi phí với hiệu quả hợp lý. Khi điều trị hiệu quả hơn, giảm biến chứng, giảm ngày nằm viện, tổng chi phí y tế toàn xã hội cũng giảm theo”, ông phân tích. Ông cũng đề xuất áp dụng các cơ chế như đàm phán giá thuốc, chi trả theo kết quả điều trị, chi trả có điều kiện, vốn đã được nhiều quốc gia áp dụng thành công.

Đại diện Bảo hiểm xã hội Việt Nam khẳng định, mở rộng quyền lợi BHYT là chủ trương lớn, nhưng phải đặt trong tổng thể bảo đảm cân đối, an toàn và phát triển bền vững Quỹ BHYT. Theo lãnh đạo Ban Thực hiện chính sách BHYT, nguyên tắc xuyên suốt là mở rộng quyền lợi có trọng tâm, ưu tiên nhóm bệnh nặng, bệnh mạn tính, người yếu thế; đồng thời kiểm soát chặt chẽ lạm dụng, trục lợi quỹ, đẩy mạnh đấu thầu, đàm phán giá thuốc và ứng dụng công nghệ trong giám sát chi phí.

Từ góc độ quản lý nhà nước, Bộ Y tế cho rằng việc mở rộng quyền lợi BHYT là yêu cầu khách quan trong bối cảnh mô hình bệnh tật thay đổi và y học phát triển nhanh. Phát biểu ý kiến tại nghị trường, Bộ trưởng Y tế Đào Hồng Lan nhấn mạnh: “Chính sách BHYT phải bảo đảm hài hòa giữa mở rộng quyền lợi cho người dân và khả năng cân đối của quỹ. Quan điểm của Bộ Y tế là mở rộng quyền lợi BHYT theo lộ trình phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm, ưu tiên nhóm bệnh nặng, bệnh mạn tính, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng quỹ”.

Theo Bộ trưởng, việc đưa thuốc, kỹ thuật mới vào danh mục chi trả cần dựa trên các tiêu chí chặt chẽ về hiệu quả điều trị, an toàn, chi phí hiệu quả và phù hợp thực tiễn bệnh tật tại Việt Nam. Bộ Y tế sẽ tiếp tục phối hợp với BHXH Việt Nam trong việc cập nhật danh mục thuốc, đẩy mạnh đàm phán giá, đấu thầu tập trung và nghiên cứu các phương thức thanh toán tiên tiến.

Tầm nhìn dài hạn cho công bằng y tế

Từ thực tiễn triển khai, nhiều ý kiến cho rằng việc mở rộng quyền lợi BHYT cần được đặt trong tổng thể sửa đổi, hoàn thiện Luật BHYT trong thời gian tới. Theo đó, luật cần tạo cơ chế linh hoạt hơn trong việc cập nhật danh mục thuốc, dịch vụ kỹ thuật; cho phép áp dụng các hình thức chi trả mới; tăng cường trách nhiệm quản lý quỹ và minh bạch chi phí.

Đồng thời, cần gắn mở rộng quyền lợi với đầu tư cho y tế dự phòng, y tế cơ sở, quản lý bệnh mạn tính, phát hiện sớm bệnh tật. Khi người dân được chăm sóc tốt ngay từ tuyến dưới, nhiều bệnh nặng có thể được phát hiện sớm, điều trị kịp thời với chi phí thấp hơn, qua đó giảm áp lực cho quỹ BHYT.

Các ý kiến từ người bệnh, chuyên gia, cơ quan BHXH và Bộ Y tế cho thấy, mở rộng quyền lợi BHYT là bước đi đúng đắn nhằm bảo đảm công bằng trong chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, để chính sách phát huy hiệu quả lâu dài, việc điều chỉnh mức hưởng cần đi kèm các giải pháp đồng bộ nhằm bảo toàn và phát triển bền vững quỹ BHYT. Chỉ khi quỹ được quản lý an toàn, hiệu quả, việc mở rộng quyền lợi mới có thể duy trì lâu dài, mang lại lợi ích cho cả người bệnh hôm nay và các thế hệ mai sau. Đó cũng chính là nền tảng để hiện thực hóa mục tiêu bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân, không ai bị bỏ lại phía sau.

Theo Bảo hiểm xã hội Việt Nam, sau hơn 30 năm triển khai, đến nay hơn 93% dân số Việt Nam đã tham gia BHYT. Mỗi năm quỹ BHYT chi trả cho khoảng 170-180 triệu lượt khám chữa bệnh, với tổng kinh phí hàng trăm nghìn tỷ đồng. Trong đó, BHYT là nguồn chi trả chủ yếu cho chi phí khám, chữa bệnh của người dân, đặc biệt với người nghèo, cận nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi, người cao tuổi, người mắc bệnh mạn tính. Với các bệnh nặng, bệnh mạn tính, người bệnh có BHYT vẫn phải tự chi trả 20-40%, thậm chí cao hơn nếu sử dụng thuốc, dịch vụ ngoài danh mục.