Thăng trầm sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ
Trong truyền thống, hình thức sản phẩm và kỹ thuật chế tác sản phẩm thủ công mỹ nghệ được truyền từ đời này qua đời khác tại từng làng nghề, từng gia đình thợ, hoàn thiện dần, trở thành sản phẩm đặc trưng riêng của từng làng nghề. Sự cầu kỳ và tinh tế trong sử dụng nguyên liệu, cùng với hình thức trang trí đặc sắc đã khiến cho nhiều sản phẩm trở thành tác phẩm nghệ thuật. Điều này được thấy rõ qua các cổ vật, từ đồ đồng, gốm đến đồ sơn son thếp vàng, khảm trai, chạm bạc,…
Từ cuối những năm 50 cho đến những năm 80 của thế kỷ trước, thợ thủ công không được sản xuất cá thể mà phải tham gia hợp tác xã (HTX). Nhà nước quản lý chặt "đầu vào" và "đầu ra" của sản xuất, các công ty xuất khẩu hàng thủ công thực hiện chế độ "giao nguyên liệu, thu mua sản phẩm". Cũng cần phải nói thêm rằng, hầu hết mẫu hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu trong thời kỳ này là mẫu hàng tiêu dùng đơn giản, giá rẻ, gọi nôm na là hàng "tầm tầm", người thợ làng nghề sẵn có tay nghề khéo léo, lại nhạy bén với cái mới, nên làm được ngay. Sự sáng tạo với những sản phẩm tinh xảo, có giá trị cao đã không có điều kiện thực hiện. Suốt thời kỳ bao cấp, trong hàng chục năm, năng lực sáng tạo vốn có của các nghề thủ công cứ thui chột dần, bí quyết nghề và những kỹ thuật tinh xảo dần dần bị quên lãng.
Sang đầu thập niên 90, những gián đoạn trong việc xuất khẩu sản phẩm thủ công mỹ nghệ sang thị trường Đông Âu cùng chính sách dần xóa bỏ bao cấp về kinh tế của Nhà nước dẫn đến xáo trộn trong việc duy trì sản xuất tại nhiều làng nghề thủ công truyền thống. Sau nhiều năm bị lệ thuộc hoàn toàn vào các công ty ngoại thương, quá bỡ ngỡ khi đương đầu trực tiếp trước thị trường, nhiều HTX phải tự giải thể.
Trong bối cảnh ấy, vai trò của các nghệ nhân đã nổi bật lên mà điển hình là ở nhiều làng nghề như làng gốm Bát Tràng, làng đan mây Phú Vinh (Hà Nội). Ở các làng này, từ nhiều năm trước, vẫn có những nghệ nhân lão thành chấp nhận sống nghèo khổ, kiên trì gìn giữ, phát huy tinh hoa nghề gia truyền. Họ vẫn tạo ra mẫu mới để "chơi", làm quà tặng cho người biết quý trọng cái đẹp. Cùng với tiến trình mở cửa kinh tế và giao lưu toàn cầu, khách hàng từ các nước phương Tây đã tới làng nghề, tiếp xúc với nghệ nhân và sẵn sàng mua sản phẩm đặc sắc với giá cao. Tính sáng tạo trong làng nghề được phát huy, mẫu mã sản phẩm lại đa dạng, phong phú hơn, chất lượng và thẩm mỹ của sản phẩm ngày càng được nâng cao, sáng tạo độc đáo và tinh xảo của các nghệ nhân có cơ hội phát triển. Theo bước nghệ nhân, sản xuất trong các làng nghề đã khởi sắc trở lại.
Một điều đáng chú ý là trong hơn 20 năm qua, phát triển công nghiệp hóa mạnh mẽ ở nước ta thu hút lượng lớn người lao động ở nông thôn. Nhân lực sản xuất trong các làng nghề thủ công truyền thống suy giảm dần là điều khó tránh khỏi. Chỉ còn lại những người vô cùng yêu nghề truyền thống và có tay nghề giỏi, nhưng tuổi của lớp người này cũng cao dần…
Thách thức lớn trong phát triển thiết kế mẫu
Khó khăn đầu tiên phải kể đến là sự hạn chế về năng lực thiết kế mẫu sản phẩm. Những người thợ thủ công được đào tạo theo hình thức truyền nghề thường chỉ học kỹ năng hành nghề và làm theo các mẫu sản phẩm cụ thể, chỉ một số ít người có năng khiếu và giỏi kỹ thuật mới có thể sáng tạo mẫu. Nhưng sáng tạo của họ thường vẫn theo thói quen, chỉ tập trung vào trang trí kỹ, thậm chí thành cầu kỳ, rắc rối, giới hạn trong nhận thức thẩm mỹ theo bản năng mà không tiếp cận được với thẩm mỹ hiện đại. Những sản phẩm tinh xảo của các nghệ nhân thường mất quá nhiều thời gian, nên nếu có bán giá cao thì tính theo thu nhập bình quân hằng ngày, cũng chỉ ở mức trung bình. Đó là trở ngại lớn cho việc bán hàng và tiếp tục phát triển sản phẩm.
Cùng với đó, người thợ thủ công trong làng nghề không biết rõ về thị trường. Họ không biết rõ khách hàng cần gì, thích gì, dùng sản phẩm như thế nào, giá bao nhiêu là phù hợp. Một số công ty tư nhân kinh doanh hàng xuất khẩu lại vẫn theo lối quen của các công ty xuất khẩu trước đây, chỉ tập trung vào các mặt hàng giá rẻ, ép giá gia công thật thấp.
Khó khăn thứ hai là nguồn nguyên liệu cạn kiệt dần, việc khai thác tự phát cùng với nạn phá rừng đã làm mất dần nguyên liệu song, mây, vốn xưa kia rất dồi dào. Việc bán nguyên liệu thô, đặc biệt là loại tốt, ra nước ngoài như nhựa sơn ta ở vùng trồng sơn Phú Thọ đã buộc không ít làng nghề sơn mài phải chuyển sang dùng sơn công nghiệp, khiến nét đẹp truyền thống của sản phẩm sơn mài mất dần.
Khó khăn thứ ba là việc đào tạo thợ thủ công chưa được quan tâm. Cho đến nay, việc đào tạo thợ thủ công vẫn gần như hoàn toàn do các nghệ nhân thực hiện theo hình thức truyền nghề. Toàn bộ ngân sách hiện dồn cho các trường dạy nghề, trong khi đó, các nghệ nhân đào tạo tới 97% số người lao động tại làng nghề; riêng với một số nghề như đan mây, tre, cói, dệt lụa, 100% số lao động do các nghệ nhân tự truyền nghề… Thế nhưng, họ không hề được hỗ trợ hoặc đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Cần tiếp sức tốt hơn cho làng nghề và nghệ nhân
Để duy trì và phát triển các nghề thủ công, vấn đề vô cùng quan trọng là công việc đào tạo thợ. Hình thức truyền nghề có lợi thế là giúp thế hệ sau nắm vững kỹ thuật, kế tục được truyền thống của nghề và có nơi làm việc ngay. Do đó, rất cần khuyến khích và hỗ trợ kinh phí cho các nghệ nhân truyền nghề. Đồng thời, cũng rất cần bổ khuyết cho hình thức truyền nghề này bằng các hình thức đào tạo bổ sung về kiến thức thẩm mỹ, thiết kế sản phẩm, về kỹ thuật tiên tiến có thể áp dụng vào nghề...
Là hạt nhân sáng tạo của nghề, đội ngũ nghệ nhân cần được quan tâm bồi dưỡng năng lực sáng tạo. Trong hai năm 1984-1986, Viện Thủ công mỹ nghệ được cơ quan chủ quản là Liên hiệp HTX Thủ công nghiệp đầu tư toàn bộ kinh phí tổ chức hai lớp bồi dưỡng kiến thức thẩm mỹ và thiết kế sản phẩm cho hơn 40 thợ giỏi. Sáng tạo của họ đạt được nhiều giải thưởng lớn trong các cuộc thi cấp quốc gia. Nhờ đó, họ trở thành hạt nhân dẫn dắt sự phát triển của làng nghề. Ngày nay, thật khó có điều kiện tổ chức các lớp như thế nhưng vẫn có thể tổ chức các đợt tư vấn ngắn hạn, giúp nghệ nhân hoàn thiện sáng tác của mình, làm mẫu mực cho các cơ sở sản xuất trong làng nghề.
Chúng ta cũng có thể học tập kinh nghiệm của các nước về quy hoạch và phát triển bền vững vùng nguyên liệu. Trung Quốc đã có kế hoạch phát triển nghề tre trong vòng 30 năm, bắt đầu từ nguyên liệu theo từng giai đoạn: chọn giống, nhân rộng diện tích trồng, và sử dụng để phát triển sản phẩm. Cuối kế hoạch, họ đã xuất khẩu và chiếm tới 85% thị trường sản phẩm thủ công từ tre của thế giới. Nhật Bản lại tập trung vào phát triển dựa trên truyền thống để hoàn thiện sản phẩm độc đáo riêng cho từng làng, phát động phong trào "mỗi làng một sản phẩm"; kinh nghiệm này đã được phổ biến rộng rãi ra nhiều nước Đông Nam Á. Việt Nam cũng học tập kinh nghiệm này và phát động phong trào OCOP, nhưng đến nay, kết quả chưa thật sự rõ rệt.
Ngày 7/7/2022, Chính phủ ban hành Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021-2030 với mục tiêu chung là: "Bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề nhằm gìn giữ và phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống của làng nghề Việt Nam, thúc đẩy phát triển sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh, giá trị gia tăng cho các sản phẩm làng nghề; tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân; bảo vệ cảnh quan, không gian và môi trường, xây dựng các khu dân cư, làng văn hóa, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội nông thôn bền vững". Nhưng để thực hiện được tốt nhất mục tiêu ấy, không có cách nào khác là phải quay trở lại việc gia cố nền tảng cho phát triển thiết kế mẫu cho sản phẩm trong lĩnh vực này.
Năm 1997, trong một hội thảo quốc tế về sản phẩm thủ công mỹ nghệ tại Philippines mà tôi tham dự, cuối chương trình, tất cả các thành viên đều nhất trí thiết kế là quan trọng hàng đầu với khẩu hiệu: "Thiếu thiết kế, các nghề thủ công không thể phát triển được trong thời kỳ công nghiệp hóa!". Đến giờ, khẩu hiệu này còn nguyên tính thời sự.
- Hiện cả nước có hơn 2.500 làng nghề sản xuất sản phẩm thủ công mỹ nghệ truyền thống. Có ít nhất 50% số làng nghề có sản phẩm được bảo hộ sở hữu thương hiệu.