Xanh hóa đô thị: xu hướng tất yếu

Thực tế những năm gần đây, các biến động khí hậu cho thấy mô hình quy hoạch dựa vào bê-tông hóa, mở rộng đường sá và giao thông cơ giới đang bộc lộ giới hạn.

Copenhagen còn được gọi là thành phố của xe đạp. (Nguồn Visitcopenhagen)
Copenhagen còn được gọi là thành phố của xe đạp. (Nguồn Visitcopenhagen)

Trong bối cảnh trên, nhiều thành phố tiên phong trên thế giới đã chuyển sang phát triển “hạ tầng xanh”, tích hợp cây xanh, mặt nước và không gian công cộng vào quy hoạch để giúp đô thị thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng thời cải thiện sức khỏe, chất lượng sống cho cư dân.

Dành sự ưu tiên cho thiên nhiên trong quy hoạch

Theo một công bố tại Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2025, Singapore là nơi tiên phong với mô hình “nature-first urban planning” (quy hoạch đô thị ưu tiên thiên nhiên)”. Tại đảo quốc này, 7.800ha, tức là gần 50 % diện tích thành phố được phủ xanh, với hệ thống công viên tạo thành những mạng lưới đường “xanh”, kết nối giữa các địa điểm, mái nhà “xanh”. Thành phố có thiết kế cảnh quan gần tự nhiên, hệ thống thu nước mưa và kiểm soát lũ lụt, giúp thúc đẩy đa dạng sinh học, giảm nhiệt đô thị, tăng khả năng chống chịu với thiên tai và cải thiện chất lượng không khí, môi trường sống.

Singapore giữ kế hoạch mở rộng không gian xanh trong vòng 10-15 năm tới. Con số này đặc biệt đáng chú ý khi đây vốn là nơi có mật độ dân số cao nhất khu vực và quỹ đất đai cực kỳ hạn chế. Sự gia tăng mạnh mẽ của không gian xanh không đến từ việc mở rộng đất đai, mà từ cách tái phân bổ, tái thiết kế và tích hợp thiên nhiên ngay trong kết cấu đô thị. Một trong những trụ cột của chiến lược này là Park Connector Network (PCN), mạng lưới đường đi xanh dành cho người đi bộ và xe đạp, kết nối các công viên, khu bảo tồn và không gian xanh thành một hệ thống liên kết chặt chẽ với tầm nhìn kết nối toàn bộ quốc đảo. Tính đến năm 2024, PCN đã đạt tới 391 km, và dự kiến tăng thêm ít nhất 50 km vào năm 2030, đồng thời bổ sung khoảng 25 công viên mới với tổng diện tích hơn 170ha. Với cấu trúc này, cư dân có thể di chuyển xuyên suốt giữa các khu vực mà hầu như không cần sử dụng phương tiện cơ giới, góp phần giảm phát thải, cải thiện sức khỏe và nâng cao chất lượng sống.

Bên cạnh đó, Singapore còn được biết đến với chiến lược tự nhiên hóa hạ tầng đô thị, trong đó tiêu biểu là dự án cải tạo công viên Bishan-Ang Mo Kio Park. Từ một kênh thoát nước bê-tông, khu vực này đã được chuyển đổi thành một dòng suối uốn lượn với thảm thực vật bản địa và không gian công viên rộng lớn. Giải pháp này không những tạo nên cảnh quan sinh thái đặc sắc, mà còn đóng vai trò như một hệ thống chống ngập lụt tự nhiên, giúp giảm rủi ro khi mưa lớn và điều hòa khí hậu khu vực. Chiến lược này còn tiếp tục được hỗ trợ bởi mô hình “Skyrise greenery/Mảng xanh trên cao”, với cây xanh trên những mái nhà, tường đứng và tầng cao của các tòa nhà, góp phần biến chiều cao đô thị thành “quỹ đất mới” cho thiên nhiên.

Có thể nói, Singapore là thí dụ sinh động cho thấy, một quốc gia, dù có diện tích rất nhỏ, vẫn có thể phát triển không gian xanh rộng lớn nếu sở hữu chiến lược quy hoạch dài hạn và tư duy lấy thiên nhiên làm trung tâm.

Tạo không gian sống nhân văn

Một khái niệm nổi bật được nhắc đến trong năm 2025 là “15-minute city” (thành phố 15 phút), nơi các nhu c­ầu thiết yếu đều có thể được tiếp cận nhanh chóng và dễ dàng bằng việc đi bộ hoặc xe đạp. Theo Reuters, mô hình này đã được nhiều thành phố trên thế giới áp dụng và được cho là giúp giảm phát thải, giảm phụ thuộc phương tiện cá nhân và thúc đẩy giao thông xanh. Xu hướng này “không chỉ mang lại lợi ích môi trường mà còn tạo ra không gian sống nhân văn, kết nối người-người và con người-thiên nhiên mạnh mẽ hơn, phù hợp với xu hướng đô thị bền vững hiện đại. Paris, Bogota, Vancouver, Glasgow, Barcelona, Thượng Hải là những thành phố như vậy.

Không thể không nhắc tới Copenhagen, thủ đô Đan Mạch, một biểu tượng khác về đô thị hiện đại gắn liền với thiên nhiên và tính bền vững. Tại Copenhagen, mô hình “xanh - thông minh - thích ứng với khí hậu” được thực thi một cách quyết liệt và đồng bộ. Trong những năm gần đây, khi các hiện tượng thời tiết cực đoan như mưa lớn bất thường, lũ lụt, biến đổi khí hậu gia tăng, thành phố đã nhanh chóng thực hiện các biện pháp đồng bộ nhằm bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng sống.

Trọng tâm trong những nỗ lực của Copenhagen là việc phát triển mạnh mẽ cơ sở hạ tầng xanh và thông minh. Theo một báo cáo trong năm 2025, thành phố đã tích hợp hệ thống mái nhà xanh, kiến trúc sinh thái, và lựa chọn sử dụng những vật liệu thân thiện môi trường cho các công trình mới, đồng thời mở rộng mạng lưới giao thông xanh. Hệ thống sưởi ấm đô thị sử dụng năng lượng tái tạo, góp phần giảm thiểu đáng kể phát thải carbon ngay từ việc xây dựng.

Không chỉ dừng lại ở những công trình, Copenhagen còn đổi mới trong cách quản lý lưu lượng nước và phòng chống ngập lụt. Nhiều công viên, quảng trường và không gian công cộng được thiết kế để biến thành bể điều tiết nước mưa khi trời mưa lớn, giúp giảm tải hệ thống cống thoát nước, tránh tình trạng gây ngập úng trên một khu vực lớn. Một số khuôn viên xanh cũ, như công viên Enghaveparken, đã được tái thiết kế để đóng vai trò như một vùng đệm mưa. Cách làm này thể hiện tư duy quy hoạch biến thiên nhiên thành thành phần hạ tầng chủ động, không chỉ để giúp thành phố trở nên “xanh - đẹp” mà còn để ứng phó với biến đổi khí hậu.

Cùng với đó, Copenhagen cũng là thành phố tiên phong trong việc phát triển mô hình giao thông bền vững: mở rộng phần đường dành riêng cho xe đạp, khuyến khích việc đi bộ và sử dụng phương tiện công cộng, từ đó giảm sự phụ thuộc vào ô-tô. Theo những phân tích mới nhất, chính sách giao thông này giúp giảm phát thải, tránh ùn tắc giao thông và tạo môi trường sống thân thiện, sạch, an toàn hơn cho cư dân.

Có thể bạn quan tâm

Để tạo nên đội ngũ lao động chất lượng cao, cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nghề. (Trong ảnh: Lớp học nghề Kỹ thuật máy lạnh và điều hòa của Trường cao đẳng nghề Bắc khoa Hà Nội). Ảnh: Thành Đạt

Bước chuyển đổi về chất

Lời tòa soạn: Sau hơn 40 năm, hoạt động đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đã đạt được nhiều kết quả. Trong bối cảnh cạnh tranh ngày một gay gắt, Việt Nam có những chuyển dịch từ trong chính sách cũng như sự chủ động của doanh nghiệp vì mục tiêu hướng đến sự chuyển đổi về chất trong xuất khẩu lao động.

Hàn điện là một trong những ngành "khát" lao động tại nhiều quốc gia.

Lành mạnh và minh bạch hơn

Tình trạng doanh nghiệp không có giấy phép vẫn đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, cộng với nạn lừa đảo đã làm ảnh hưởng lớn đến người lao động. Làm lành mạnh, minh bạch hóa thị trường lao động xuất khẩu trở thành đòi hỏi ngày càng cấp thiết.

Người lao động Việt Nam vốn chăm chỉ, song cần nâng cao chất lượng tay nghề để có thể vươn đến phân khúc thu nhập cao.

Đổi mới căn bản từ đào tạo

Xu hướng chuyển đổi xanh của các nền kinh tế thế giới đòi hỏi Việt Nam phải sớm có chiến lược đào tạo bài bản nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực chất lượng cao, có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Một lớp học tiếng Hàn dành cho học viên chuẩn bị xuất khẩu lao động. Ảnh Văn Học

Xây dựng hệ sinh thái xuất khẩu lao động toàn diện

Thị trường lao động đang ngày càng đòi hỏi người lao động có trình độ tay nghề, kỹ năng cao. Vì thế, công tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài cần một sự thay đổi về chất. Đó là chuyển từ "xuất khẩu sức lao động" sang "xuất khẩu nhân lực chất lượng".

Cơ quan chức năng Việt Nam họp với đối tác Hàn Quốc nhằm thúc đẩy hợp tác song phương trong lĩnh vực lao động, việc làm.

Đồng bộ giải pháp mở rộng thị trường thu nhập cao

Ông Đặng Đức Thuận, Phó Cục trưởng Quản lý lao động ngoài nước, Bộ Nội vụ, chia sẻ với Nhân Dân cuối tuần, về những giải pháp trong quản lý nhà nước để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xuất khẩu lao động. Đi đôi với đó là giảm khâu trung gian, chống lừa đảo, bảo vệ người lao động.

Tại Techno Park, các doanh nghiệp FDI tham gia ngay từ khâu đặt hàng và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao tại chính các nhà máy đạt tiêu chuẩn quốc tế. (Ảnh Vân Nguyễn)

Xu thế mới từ mô hình xuất khẩu tại chỗ

Thay vì phải trả những khoản chi phí không nhỏ cho môi giới xuất khẩu lao động, phải xa gia đình đi làm ăn ở nơi xứ người với rất nhiều khác biệt về văn hóa, khí hậu, thói quen sinh hoạt… nhiều người lao động Việt Nam đang lựa chọn việc làm theo một xu hướng mới.

Anh Lê Lương Nguyên (ngoài cùng bên phải) trao đổi với lao động trong xưởng.

Cú "quay xe" ngoạn mục

Nghệ An là một trong những địa phương có nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Sau nhiều năm bôn ba xứ người, không ít cá nhân quyết định về nước lập nghiệp, trở thành những tấm gương làm kinh tế giỏi.

Các hình thái thời tiết ngày càng cực đoan buộc các đô thị phải sớm thay đổi cách ứng phó, tăng khả năng chống chịu. (Ảnh THÀNH ĐẠT)

Quy hoạch đô thị và sức đề kháng với thiên tai

Liên tiếp những đợt thiên tai bất thường xảy ra trong hai tháng qua đã khiến nhiều tỉnh, thành phố trên cả nước gánh chịu những hậu quả khôn lường, và làm bộc lộ nhiều bất cập, đặc biệt là hiện tượng ngập lụt tại các đô thị lớn.

Ứng phó ngập lụt đô thị không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là thước đo năng lực quản trị và tầm nhìn phát triển quốc gia. (Ảnh: Xuân Ngọc)

Chuyển đổi tư duy để chủ động thích ứng

Ngập lụt đô thị đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, kéo dài và khó giải quyết ở hầu hết các thành phố lớn của Việt Nam. Thời gian qua, dù hàng loạt dự án chống ngập được triển khai với vốn đầu tư lớn, nhưng tình trạng nước dâng ngập đường, nhà cửa, khiến giao thông tê liệt và đời sống người dân bị đảo lộn... vẫn tiếp diễn.

Ao Hoàng Giáp trong ngõ 99 Định Công Hạ (phường Định Công, Hà Nội) bị lấn chiếm, dựng nhà tạm và tập kết vật liệu xây dựng. (Ảnh VĂN HỌC)

Khi mặt nước vẫn đang bị thu hẹp

Tình trạng lấn chiếm, lấp ao, hồ, sông, kênh dẫn nước trái phép, không chỉ gây thất thoát tài sản công, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng thoát nước, thấm nước của Thủ đô Hà Nội.

Công viên trữ nước Chulalongkorn Centenary ở trung tâm thủ đô Bangkok (Thái Lan) có khả năng lưu trữ hơn 1 triệu lít nước nhờ hệ thống hồ chứa liên hoàn. (Nguồn QUYHOACHDOTHI.VN)

Gợi mở từ thế giới

Trải qua hàng thập kỷ gồng mình chống chịu các hiện tượng thời tiết cực đoan, nhiều mô hình đô thị tích hợp khả năng chống chịu biến đổi khi hậu được triển khai ở các quốc gia như: Hà Lan, Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc hay Đức là minh chứng tiêu biểu cho tư duy "sống chung với nước" bằng khoa học, quy hoạch và quản trị hiện đại.

Trao quà cứu trợ đến với người dân vùng lũ tỉnh Đắk Lắk. (Ảnh TTXVN)

Cần chính sách đặc biệt

Hơn một tuần qua, sau đợt mưa lũ lịch sử, các tỉnh Lâm Đồng, Khánh Hòa, Đắk Lắk, Gia Lai vẫn oằn mình nỗ lực vượt qua những tổn thất nặng nề do thiên tai.

Công nhân EVNHANOI sử dụng máy đo nhiệt kiểm tra tình trạng thiết bị điện tại trạm biến áp vận hành không người trực. Ảnh: Thành Đạt

Từ ứng dụng tới làm chủ công nghệ chiến lược

Xuất phát từ chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, và trên tinh thần cụ thể hóa Nghị quyết số 57-NQ/TW; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, Việt Nam xác định tập trung nguồn lực phát triển các công nghệ chiến lược.

Quang cảnh Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 lần thứ 28. (Ảnh VGP/Nhật Bắc)

Cải thiện môi trường kinh doanh nhờ hiện đại hóa quản lý

Một số ngành nghề như kinh doanh "tạm nhập, tái xuất" thực phẩm đông lạnh, xuất khẩu gạo hay dịch vụ kế toán… vốn được xác định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề này thường khá chật vật, chạy đôn chạy đáo để lo hoàn thiện hồ sơ xin giấy phép kinh doanh.

Phó Tổng Giám đốc Qualcomm Gerardo Giaretta nhận định, kỹ sư Việt Nam có trình độ đẳng cấp thế giới.

Cú huých đủ mạnh

Một doanh nghiệp Việt Nam lọt vào báo cáo của Gartner, hệ quy chiếu khắt khe bậc nhất thế giới, có thể chỉ là một lát cắt nhỏ của ngành công nghệ. Nhưng đằng sau đó là tương lai đầy hứa hẹn: Người Việt đủ khả năng bước vào sân chơi công nghệ lõi, song cần có một cú huých đủ mạnh.

Công nhân EVNHANOI kiểm tra vận hành Hệ thống thiết bị đóng cắt hợp bộ. Ảnh: Thành Đạt

Hợp tác ba bên trong phát huy giá trị cốt lõi

Từ một hệ thống chủ yếu vận hành bằng thiết bị nhập khẩu, ngành điện Việt Nam đang bước vào giai đoạn vươn mình, nỗ lực làm chủ các công nghệ lõi, để không bị tụt lại trong xu thế chuyển dịch năng lượng toàn cầu.

Kiểm tra thông số thiết bị điện tại trạm biến áp. (Ảnh Thành Đạt)

Nền tảng quản lý, vận hành tối ưu lưới điện

Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng và độ tin cậy cung cấp điện, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không ngừng cải thiện nền tảng hạ tầng, ứng dụng các giải pháp công nghệ hiện đại. Trong đó, việc làm chủ nhiều bộ khung công nghệ cốt lõi giúp quá trình quản lý và vận hành lưới điện ngày càng hiệu quả.

Tòa nhà PECC2 Innovation Hub tại Thành phố Hồ Chí Minh đã vận hành BESS công suất 750 kW.

BESS - Gỡ nút thắt cho năng lượng tái tạo

Những năm gần đây, Việt Nam đã vươn lên nhóm quốc gia tăng trưởng năng lượng tái tạo nhanh nhất khu vực. Tuy nhiên, tình trạng nguồn điện sạch vẫn bị bỏ phí cần được ngành điện nhận diện và tìm lời giải.

Trung tâm Điều khiển số tại Trung tâm Điều độ Hệ thống điện Thành phố Hà Nội được xây dựng trên nền tảng hệ thống SCADA. (Ảnh Thành Đạt)

Đo độ phát triển công nghệ, đếm lợi thế cạnh tranh

Công nghệ lõi là những công nghệ nền tảng, có khả năng chi phối chuỗi sản xuất công nghiệp, tạo ra hệ sinh thái sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng cao. Làm chủ công nghệ lõi đồng nghĩa với việc nắm quyền thiết kế, tích hợp và sản xuất hệ thống, từ đó giảm phụ thuộc bên ngoài và nâng cao năng lực tự chủ công nghệ.

Đoàn đánh giá ngoài thuộc Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long tiến hành kiểm định chất lượng một số chương trình đào tạo của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội).

Triết lý giáo dục trong thời đại thời AI

Triết lý giáo dục là nền tảng định hướng cho bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục. Nó không chỉ là khẩu hiệu hay niềm tin chung, mà là hệ quy chiếu giá trị chi phối mọi hoạt động quản lý, giảng dạy và học tập.

Đoàn chuyên gia của Hiệp hội Kiểm định các Trường đại học Nhật Bản kiểm định chất lượng tại Trường đại học Việt Nhật. (Ảnh VJU)

Phép thử với năng lực tự đổi mới

Nếu như kiểm định chất lượng bên ngoài là "tấm gương phản chiếu" khách quan, thì bảo đảm chất lượng bên trong chính là "nội lực" duy trì và phát triển bền vững của chính mỗi trường đại học.

GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

Chuyển hóa từ công cụ thành động lực

Đánh giá hiện trạng công tác bảo đảm chất lượng giáo dục đại học và nêu định hướng một số giải pháp là nội dung cuộc phỏng vấn của phóng viên Nhân Dân cuối tuần với GS, TS Huỳnh Văn Chương (ảnh bên), Cục trưởng Quản lý Chất lượng - Bộ Giáo dục và Đào tạo.

PGS, TS Lê Văn Hảo.

Lan tỏa văn hóa chất lượng

Theo PGS, TS Lê Văn Hảo, Ủy viên Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục của Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Thăng Long và Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục Sài Gòn, các cơ sở giáo dục đại học cần có chiến lược và giải pháp cụ thể để hình thành và phát triển bền vững văn hóa chất lượng của nhà trường.

Sinh viên học tập tại Thư viện Trường đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. (Nguồn: Website nhà trường)

Tâm tư "người trong cuộc"

Những năm qua, công tác kiểm định chất lượng giáo dục đại học đã được triển khai đồng bộ, có chiều sâu và đạt kết quả tích cực. Tuy nhiên, công tác tự đánh giá và bảo đảm chất lượng giáo dục đại học vẫn còn nhiều khó khăn.

Thiết kế: Khiếu Minh; ảnh: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Thành Đạt

Tinh thần khai phóng và khát vọng sáng tạo

Tháng 11/1925, khóa khai giảng đầu tiên của ngôi trường Mỹ thuật Đông Dương, tiền thân của Trường đại học Mỹ thuật Việt Nam, đã đặt dấu mốc đặc biệt mang tính bước ngoặt cho một cuộc cách mạng thẩm mỹ lớn trong xã hội Việt Nam đương thời.