Mẩy gặp mấy vị khách nước ngoài nhìn mấy cái áo Mẩy mặc, họ tò mò, trả giá rất cao, người phiên dịch còn nói họ muốn mua nhiều. Từ đó, Mẩy quyết tâm học tiếng Anh, trước tiên để bán hàng, “Có tiền chồng sẽ không đánh mình nữa”.
Để là chính mình
Hồi chúng tôi gặp chị Lý Tả Mẩy ở thôn Lủ Khấu (xã Tả Phìn, Lào Cai), chị kể chị bán thổ cẩm là để chồng khỏi đánh. Chồng chị vốn cũng hiền lành thôi, nhưng mỗi cơn say thì thường không kiểm soát được bản thân. Thôn bản có hòa giải thì cũng chỉ dăm bữa nửa tháng.
Mấy năm đầu, chị vạch ra kế hoạch học tiếng Anh để tự mình giao tiếp với người nước ngoài. Chị học từ chính những vị khách chị gặp ở chợ Sa Pa, tham gia các lớp học miễn phí. Đủ vốn ngoại ngữ, chị Mẩy có được những đơn hàng đầu tiên, rồi hợp đồng lớn mang về cả trăm triệu đồng mỗi năm. Chồng chị lâu lắm chẳng còn to tiếng, khách tới nhà ông ra mở cổng tận tình. “Ông ấy nghe lời rồi, uống rượu ít đi rồi”, chị Mẩy kể. Mà từ lâu lắm, những gì chị đạt được đã vượt hẳn mục tiêu ban đầu “để không bị đánh” rồi.
Những chị em thợ thêu mà chị Mẩy tập hợp trong thôn mỗi khi có hợp đồng, phần nhiều cũng ở hoàn cảnh chẳng mấy suôn sẻ. Có người bị chồng đánh, có người phải làm mẹ đơn thân khi còn quá trẻ, có người vừa trở về sau những năm tháng bị bán qua biên giới. Nhưng họ không có thời gian để buồn, cũng chẳng có nhu cầu than vãn, họ còn bận rộn với những đơn hàng không dứt, những giờ học tiếng Anh. “Mình phải nghĩ ra cách chứ”, đấy là “triết lý” của người phụ nữ Dao thậm chí còn không biết viết ở trên nơi mù sương Sa Pa.
Ở xã Lùng Tám (Tuyên Quang), HTX dệt lanh thổ cẩm Hợp Tiến của bà Vàng Thị Mai, cũng có nhiều số phận phụ nữ như vậy. Đến HTX, người ta hay được bà Mai giải thích về các hoa văn trên các sản phẩm thổ cẩm. Vòng tròn xoắn ốc là chỉ phụ nữ đơn thân nuôi con một mình, hình hoa văn bốn góc là chỉ gia đình hạnh phúc, hoa văn hai góc là vợ chồng mới cưới. Lâu dần, những hoa văn trên thổ cẩm của HTX thổ cẩm Hợp Tiến đã thành những ký hiệu riêng. Nó không chỉ là một ký hiệu văn hóa của người H’Mông, mà còn ẩn giấu cả chuyện đời của những người phụ nữ làm ra nó.
HTX bà Mai, hay nhóm của chị Mẩy, mỗi năm nhận đơn hàng vài trăm triệu đồng tới cả tỷ đồng. Những người phụ nữ ấy đi nước ngoài một năm vài bận. Những chiếc áo hoa văn người Dao chị Mẩy thêu đã sang tới tận Âu-Mỹ, còn chị cũng tham dự nhiều triển lãm quốc tế. Cuốn hộ chiếu của chị có đủ visa các nước phát triển, như Mỹ, Anh, Pháp cũng đi vài ba bận. Bây giờ, chị có đủ vốn tiếng Anh để bán hàng, để trả lời mọi câu hỏi ở các cuộc triển lãm quốc tế, và để xoay xở ngon lành khi đến sân bay Paris nhộn nhịp. “Đi nước ngoài có gì đâu, mình cứ nhìn biển là mình biết thôi”, Lý Tả Mẩy kể về những lần xuất ngoại.
Những triết lý không rườm rà
Hồi con đường Hạnh Phúc (Tuyên Quang) rầm rộ kỷ niệm 50 năm thành lập, người ta mời rất nhiều cựu thanh niên xung phong tới thăm lại đường. Chỉ có một người, người đội trưởng đội Thanh niên dũng cảm treo mình sáu tháng phá đá hạ Mã Pì Lèng, thì vẫn yên lặng ở một bản nhỏ mãi Cao Bằng. Sau hai lần tai biến, ông cũng không còn minh mẫn. Năm xưa ông Nguyễn Sĩ Quốc (dân tộc Tày) là người đầu tiên xung phong vào đội thanh niên dũng cảm, nhận nhiệm vụ mà người ta vẫn kể rằng, công trường phải dành sẵn 20 chiếc quan tài để ở chân đèo. Bởi treo mình trên sống mũi ngựa, đục choong nổ mìn bằng tay là việc xưa nay chưa ai dám làm. Hơn một cây số qua đỉnh Mã Pì Lèng, có độ khó bằng hơn cả 22 km đoạn Đồng Văn - Mèo Vạc, đó cũng là chốt, hoàn thiện chặng cuối cùng của bản hùng ca Hạnh Phúc trên đỉnh trời cao nguyên đá.
Nhiều năm sau, ông Quốc nhớ nhớ quên quên, mọi việc đều dựa vào vợ. Ông dũng cảm, bà còn dũng cảm hơn. 14 tuổi, bà như nhiều cô gái mới lớn khác, được bố mẹ định sẵn một mối hôn sự trong làng. Nhưng bà thẳng thừng nói với bố: Nếu người ta đợi được 10 năm nữa, cho bà học xong thì bà mới chịu cưới. Hồi ấy lời nói của bà như một “quả bom” giữa làng, chẳng cô gái nào qua 20 tuổi mà không lấy chồng cả. Nhà trai thoạt đầu cũng đồng ý đợi, nhưng mới được sáu năm thì người ta mang lễ vật đi dạm hỏi cô gái khác. Bố bà sốt ruột, muốn nhận lời một nhà khác, bà lại gàn: “Con như con gà mới được sổng chuồng tự do, giờ bố đã bắt con giam lại à? Người ta đui què con cũng phải lấy à?”. Bố bà nài nỉ: “Thôi cứ gặp, nếu ưng thì cưới. Còn đui què là bố giả lễ ngay”.
Rồi bà đồng ý gặp. Ông Quốc lúc ấy vừa trở về từ Hà Giang, chỉ vỏn vẹn chứng nhận Thanh niên xung phong, còn chẳng biết được rằng mình vừa lập một chiến tích kinh khủng cỡ nào. Bà bảo ông tròn, trắng, đẹp trai, được lòng người lớn nên bà ưng. Ấy vậy mà ông cũng phải chờ thêm bốn năm nữa cho đủ mốc 10 năm, bà học xong, vào Đảng rồi hai người mới chính thức làm đám cưới. Bao nhiêu năm lấy chồng, bà làm ở Ty Thương nghiệp, tham gia Hội Phụ nữ, cũng bôn ba khắp cả huyện chứ chẳng chịu ngồi một xó. Sau ông yếu nhiều, bà vẫn năng nổ xốc vác, bao nhiêu việc của ông bà quán xuyến cả. Hỏi bà rằng suốt bao nhiêu năm đi học, bà có bao giờ bị dị nghị vì mãi không chịu lấy chồng không, bà bảo: “Không đâu, mình thấy đúng mình cứ làm chứ”.
Bà Vàng Thị Sỏng, người La Chí ở bản Khun (xã Bằng Lang, Tuyên Quang) là một triết lý ấn tượng khác. 34 tuổi, chồng bà qua đời, để lại mình bà nuôi bốn đứa con thơ dại. Nhiều người đàn ông cũng ngấp nghé muốn hỏi bà về làm vợ, bố chồng thương bà, bảo bà cứ đi bước nữa không phải ngại ngần gì. Nhưng bà từ chối thẳng: “Tôi nói bố này, đi tiếp là đi tiếp thế nào, đi tiếp con tôi ai lo”.
20 năm sau, bà ở cùng cậu con trai trong căn nhà gỗ, xởi lởi vui vẻ chào khách, nhắc chuyện cũ vẫn nổ to như pháo rang: “Lấy thêm chồng là thêm mộ thôi, chứ sao cứ phải lấy thêm chồng mới sống được”. Bà không biết chữ, nhưng bà nuôi cả bốn đứa con trưởng thành, khỏe mạnh, chăm chỉ. Cô con dâu bà đích thân cưới hỏi về cho cậu con trai duy nhất, giờ là Bí thư chi bộ của thôn. Con dâu bận việc nhà nước, bà cũng nhiệt tình hỗ trợ. Hôm chúng tôi đến, bà còn chỉ cái rổ với đám chỉ ngũ sắc, nói con dâu dặn bà rảnh rỗi cứ làm mấy quả còn, với các dây đeo, rồi các ngày lễ, các hoạt động tập thể mang đi treo trang trí. Bà nói cũng là giúp con cái. Ở nhà nhưng bà luôn chân luôn tay, khách du lịch thích đến nói chuyện với người phụ nữ thuần hậu, vô tư này. Bà Sỏng giống như một điểm nhấn nhá đặc biệt cho bản du lịch vẫn còn đang rất sơ khai này.
Dù là bay khắp bốn phương như Vàng Thị Mai, Lý Tả Mẩy, hay chỉ ở trong làng như Vàng Thị Sỏng, thì họ vẫn là những người phụ nữ rất độc lập và chính kiến. Họ không băn khoăn nhiều về những lựa chọn quyết định cuộc đời, mọi triết lý của những người phụ nữ ấy đều vô cùng đơn giản, chọn để được là chính mình.
Nhìn về những lập ngôn rất dài về bình đẳng giới, lại nghĩ về những người phụ nữ ấy, mới thấy dường như, đấy mới là cốt lõi của hai từ bình đẳng.