Tôi tìm về làng Đồng Minh, xã Vĩnh Phúc, huyện Vĩnh Lộc (nay là xã Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) vào một buổi trưa nắng gắt. Con đường làng hẹp, những bờ rào thấp, tiếng gà và mùi rơm rạ quen thuộc gợi cảm giác bình yên rất đời. Tôi dừng lại hỏi thăm ở một quán tạp hóa nhỏ ven đường. Người phụ nữ bán hàng nhìn tôi một lúc, rồi chỉ đường rất cẩn thận. Khi tôi vừa quay xe đi, bà gọi với theo, giọng chùng xuống: “Ông ấy mất rồi chú ạ. Mới hơn trăm ngày…”.
Câu nói ấy khiến tôi đứng lặng vài giây. Người tôi tìm gặp, người lính cuối cùng của Trung đội Mai Quốc Ca - Vũ Quang Thành, đã không còn. Tôi đến muộn. Thế nhưng, những gì còn lại trong ngôi nhà ấy, trong ký ức của người ở lại, vẫn đủ để kể một câu chuyện khác sau chiến tranh, câu chuyện không nằm trong những trang sử hay bài ca chiến thắng.
Người cuối cùng của Trung đội Mai Quốc Ca
Ngôi nhà năm gian cũ kỹ nằm khuất trong vài con ngõ. Hai người phụ nữ lớn tuổi đang ngồi uống nước trước sân. Thấy người lạ vào nhà giữa trưa nắng, cả hai nhìn rất chăm chú, ánh mắt vừa dò xét vừa cảnh giác. Chỉ đến khi biết chúng tôi cũng là bộ đội, không khí mới dịu xuống. Người phụ nữ gầy, da sạm nắng là vợ ông Thành. Bà tên Huệ.
Bà nhìn di ảnh trên bàn thờ, giọng chậm rãi: “Ông ấy đi nhanh lắm. Mới năm ngoái còn có người về hỏi chuyện, vậy mà…”. Bà dừng lại, như thể chưa quen với việc gọi chồng mình là “ông ấy”. Người chị gái ngồi bên cạnh tiếp lời: “Trái gió trở trời là chú ấy đau không ngủ được. Nhưng quen rồi, thành ra cứ nghĩ là vết thương cũ”.
Năm 1971, chàng trai 19 tuổi Vũ Quang Thành lên đường nhập ngũ. Anh chiến đấu trong Trung đoàn 14, tỉnh đội Thanh Hóa, lực lượng dự bị cho Sư đoàn 304. Tháng 9/1971, Vũ Quang Thành trở thành thành viên của Trung đội 2 thuộc Đại đội 11, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 9, Sư đoàn 304. Trung đội gồm 20 chiến sĩ, phần lớn là thanh niên Thanh Hóa, tuổi đời mới mười tám, đôi mươi, do trung đội trưởng Mai Quốc Ca chỉ huy. Họ rời làng quê, ruộng đồng, mang theo lý tưởng rất trong trẻo của một thế hệ, đi để đất nước được thống nhất, để gia đình được yên bình. Năm 1972, Trung đội 2, hay còn được gọi là Trung đội Mai Quốc Ca nhận nhiệm vụ ở mặt trận Quảng Trị.
Rạng sáng ngày 10/4/1972, Trung đội Mai Quốc Ca nhận nhiệm vụ đánh sập cầu Thạch Hãn, chặn đường tiếp viện của địch. Quân địch khẩn cấp điều cùng lúc ba tiểu đoàn lính tinh nhuệ, gồm lính dù, biệt động và thủy quân lục chiến, huy động máy bay, pháo binh, xe tăng yểm trợ, tạo thành một gọng kìm bao vây Trung đội Mai Quốc Ca. Trận đánh diễn ra khốc liệt từ sáng đến chiều. Lực lượng chênh lệch. Đạn dược cạn dần. Người trước ngã xuống, người sau lao lên. Cả trung đội chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, tiêu diệt hơn 120 tên địch. Thế nhưng 19 người của Trung đội hy sinh.
Vũ Quang Thành bị thương rất nặng ở bụng nhưng nhờ có xác đồng đội phủ lên và đêm tối nên không bị địch phát hiện. Trong cơn sốt mê man vì mất máu, ông cố lết xa khỏi trận địa, lần vào khoảng sân của một ngôi nhà phía bờ sông để tìm nước uống. Thật không may, đó là nhà của một tay lính ngụy. Ông sống sót nhưng bị bắt.
Ông Thành được đưa đi điều trị qua nhiều nơi, rồi bị tra hỏi, dụ dỗ, chiêu hồi. Không khuất phục được, đối phương đưa ông ra trại giam Phú Quốc, nơi được xem là địa ngục trần gian. Ở đó, ông sống bằng ý chí của một người lính đã chứng kiến toàn bộ đồng đội mình ngã xuống. Năm 1973, ông được trao trả tù binh theo Hiệp định Paris. Ngày trở về diễn ra ngay tại dòng Thạch Hãn, nơi ông từng chiến đấu, nơi 19 đồng đội đã hy sinh. Người vợ kể lại lời chồng mình, mắt đỏ hoe: “Ông ấy nói, hôm ấy vui thì có vui, nhưng trong lòng lại nặng lắm. Như thể mình bước qua ranh giới để được sống, còn anh em thì ở lại mãi phía bên kia”.
Năm 1973, Trung đội Mai Quốc Ca được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Năm 1996, tỉnh Quảng Trị đã xây dựng đài tưởng niệm Trung đội bên bờ sông Thạch Hãn, với 20 quả tim mầu đỏ tượng trưng cho tinh thần chiến đấu quả cảm của 20 người lính. Mãi tới khi thăm đài tưởng niệm, ông Thành mới biết, tên mình cũng khắc trên một tấm bia mộ ở khu mộ Trung đội Mai Quốc Ca.
Quả tim đỏ thứ 20 của Trung đội Mai Quốc Ca, có lẽ giờ đã hòa chung nhịp tim đồng đội bên bờ Thạch Hãn. Trung đội của ông đã đi vào lịch sử bằng một chiến công trọn vẹn. Có thể với riêng ông Thành, vẫn còn những điều chờ đợi.
Hành trình để sống tiếp
Sau ngày trở về, chiến tranh với ông Thành chưa kết thúc. Nó chỉ chuyển sang một hình thức khác, âm thầm hơn, dai dẳng hơn. Ông lao động, học tập, tham gia công tác ở địa phương. Ai cũng công nhận ông là người có năng lực, trách nhiệm, sống nghĩa tình. Nhưng có những con đường, ông đi rất chậm. Không phải vì thiếu cố gắng, mà vì hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ đòi hỏi sự thận trọng. Người vợ nói rất khẽ, như sợ chạm vào một vùng ký ức nhạy cảm: “Ông ấy buồn chứ. Nhưng không bao giờ kêu. Ông bảo, mình hiểu hoàn cảnh chung”, rồi bà Huệ quay đi, đưa tay quệt nước mắt.
Sau chiến tranh, đất nước bước vào giai đoạn hàn gắn và bảo vệ thành quả cách mạng. Lịch sử đặt lên vai xã hội một sự cảnh giác cần thiết. Trong bối cảnh ấy, những người từng rơi vào tay đối phương, từng bị giam cầm, tra khảo, nếu không có đầy đủ nhân chứng từ đồng đội, rất khó để câu chuyện đời họ được nhìn nhận trọn vẹn ngay lập tức. Cả trung đội không còn ai để chứng minh cho ông Thành. Đó không phải lỗi của cá nhân, cũng không thể trách cứ tổ chức hay con người của một thời lịch sử đầy thử thách. Nhưng với người trong cuộc, sự cảnh giác ấy giống như một đám mây mỏng, không nhìn thấy, không chạm được, nhưng luôn phủ mờ lên đời sống thường nhật. Nó không khiến người ta bị loại trừ, nhưng cũng không cho phép họ bước nhanh. Ông Thành hiểu rất rõ điều đó nên thường động viên vợ: “Mình còn sống đã là may mắn hơn anh em. Có chậm một chút cũng không sao”.
Những năm tháng trở về địa phương, ông Thành được bà con tín nhiệm cử làm công việc kế hoạch của Hợp tác xã nông nghiệp xã Vĩnh Phúc, rồi gắn bó suốt 12 năm liền trên cương vị trưởng thôn Đồng Minh. Công việc “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” sau lũy tre làng ít đong đếm được bằng thành tích cụ thể. Thế nhưng, từng con đường nội thôn, từng vụ mùa, từng việc chung của làng đều in dấu sự tận tụy của một người lính. Ngày lo việc làng, đêm vắt tay lên trán nhớ thương đồng đội nằm lại chiến trường, ông Thành lại tất tả đi vận động, xây dựng Ban liên lạc Hội chiến sĩ cách mạng bị địch bắt, tù đày huyện Vĩnh Lộc. Ông mong mỏi đó là một mái nhà chung để những người lính trở về từ cõi chết có chỗ nương tựa, sẻ chia, giúp đỡ nhau trong đời sống và cùng đóng góp cho địa phương. Ông chọn cách sống lặng lẽ, làm việc nhiều hơn nói. Nhưng trong sâu thẳm, ông dường như vẫn chờ đợi một sự ghi nhận.
Rồi sự ghi nhận cũng đã đến. Ba năm trước, ông Thành được Chi bộ giới thiệu đi học đối tượng Đảng, nhưng đó cũng là lúc thời gian của ông đã cạn. “Nếu không có cái vết thương cũ, có khi ông ấy đã không chủ quan đến vậy”, người vợ nghẹn ngào.
Chiến tranh để lại trên thân thể ông Thành một vết thương lớn. Mỗi khi trái gió trở trời, vết thương lại đau nhức, đến mức ông đã quen. Cứ thế, vết thương chiến tranh vô tình che lấp cơn đau của một căn bệnh khác đang lớn dần trong cơ thể. Khi ông đi khám, mọi thứ đã quá muộn. Tế bào ung thư di căn đã cướp ông đi trong lặng lẽ.
Nỗi buồn chiến tranh không nằm ở chiến hào. Nó cũng không nằm trong khoảnh khắc người lính bước ra trận, đối diện với cái chết. Những người lính như ông Thành không bước qua chiến tranh với tâm thế của kẻ bị xô đẩy, mà với ý thức của người gánh vác. Thế hệ cha anh chúng ta năm xưa ra đi với một sự lựa chọn rất rõ ràng, nếu không đi, đất nước này sẽ không có ngày thống nhất. Họ hiểu giá trị của hòa bình, và chấp nhận trả giá, không lùi bước. Thế nên, với những chậm trễ sau này, ông Thành chưa từng oán trách.
Nỗi buồn chiến tranh, cả nỗi buồn sau chiến tranh sẽ mãi là nỗi buồn, chỉ khi những hy sinh bị thờ ơ. Nếu thế hệ sống trong hòa bình không còn đủ kiên nhẫn để lắng nghe, không còn đủ hiểu biết để thấu cảm và cũng không còn đủ khiêm nhường để biết mình đang thừa hưởng điều gì, thì đó mới thật sự là nỗi buồn.