Sống ở vùng cửa sông

Con đường nối từ đê sông Hồng đoạn gần cửa Ba Lạt với đê sông Trà-lằn ranh giữa vùng đệm và vùng lõi Vườn Quốc gia Xuân Thủy (Nam Định) vừa được làm mới. Trước khi tới vùng lõi, nó chạy qua trụ sở vườn, qua bao đầm bãi, cầu cống ở vùng đệm. Chiều tháng 6, nắng chói chang, đầm bãi thì mênh mông nên trên quãng đường dài khoảng 5 km, dẫu thỉnh thoảng có thấy vài dáng người lom khom, lụi cụi ở xa chúng tôi vẫn có cảm giác nơi đây thật vắng vẻ...

Ông Giang, một thợ nuôi ong ở Vườn quốc gia Xuân Thủy.
Ông Giang, một thợ nuôi ong ở Vườn quốc gia Xuân Thủy.

Mưu sinh ở đầm bãi...

Người đầu tiên chúng tôi gặp trên đường ra vùng lõi là hai phụ nữ. Đầu đội nón, khăn chùm kín mặt, chị Hoa, chị Thảo ngồi phơi rau câu bên vệ đường. Đã ăn thạch rau câu nhưng giờ tôi mới biết nguyên liệu làm ra thứ thực phẩm được xem là lành, sạch này chính là thứ cây nhỏ, mềm, có mầu đen giống rong rêu vừa được chị Hoa, chị Thảo vớt lên từ đầm nước ven đường.

Các chị cho hay cùng là người xã Giao An (xã vùng đệm), lâu nay thường vào đây mưu sinh bằng việc vớt rau câu thuê. Nói vớt thuê là bởi, ở vùng đệm rộng mênh mông này đầm bãi đều có chủ, như khu đầm các chị đang vớt rau câu là của một người tên Chính, cùng xã. Đầm được chủ đầu tư nuôi tôm, cua, cá... nhưng rau câu mọc đầy. Những người như chị Hoa, chị Thảo được chủ đầm thuê vớt, chẳng phải để vứt đi mà mang phơi khô rồi bán cho đại lý thu gom. “Ở đây chỉ có một đại lý thu mua nên họ trả bao nhiêu chúng tôi bán bấy nhiêu. Hiện họ trả giá 5 nghìn đồng/kg, cân xong chúng tôi được chủ đầm chia cho một nửa”, hai chị thật thà. Vất vả, quần quật từ sáng đến tối nhưng như lời các chị mỗi ngày cũng kiếm được khoảng 200 nghìn đồng nên chẳng quản nắng mưa trên đầm...

Ông Đương có vẻ nhàn tản hơn. Bước vào ngôi nhà tạm dưới chân đê sông Trà, chúng tôi thấy ông đang “đánh một giấc say” trên giường trong khi gió từ đầm bãi thổi vào mát rượi. Tỉnh giấc, người đàn ông khoảng 60 tuổi cho hay ông đang trông coi thuê khu đầm bên cạnh cho một ông chủ tên Tước người xã Hoành Sơn, trong nội đồng. Đến giờ, đầu đội mũ cối, quần đùi, áo cộc, ông Đương đi mở cống lấy nước cho đầm. Trước khi mở, ông không quên đặt ở miệng cống phía đầm của mình một tấm lưới chắn to. Qua vài thao tác thành thục của ông, mấy tấm ván gỗ được nhấc lên, nước từ phía đầm bên vùng lõi của Vườn chảy ùa vào, kéo theo nhung nhúc cá. Tất thảy nằm gọn trong chiếc lưới ông Đương giăng sẵn. Nhìn cảnh ấy, chúng tôi mường tượng chiều nay ông sẽ có một ít tiền từ bán cá.

Dưới chỗ ông Đương, trong cái nắng chiều hôm, cha con ông Giang lại đang lặng lẽ, chăm chú thăm khám mấy chục chiếc hòm nuôi ong, đặt dọc dài bên vệ đê. Nhẹ nhàng tháo từng chiếc khay nơi có đàn ong đang “nhung nhúc” ra, giương lên ngắm ngía, thấy chỗ nào sáp ong nhô lên, cửa vít kín, ông Giang lại dùng con dao chuyên dụng khẽ lách vào, gợt ngang, làm bật ra những ấu trùng ong trắng muốt. “Đó là ấu trùng ong đực. Mà ong đực không làm việc, để nở ra nhiều không tác dụng, tốn thức ăn, phải khử bớt để dành thức ăn nuôi ong chúa đẻ, nuôi ong thợ làm việc”, ông giải thích. Ông Giang người xã Xuân Thành trên huyện Xuân Trường, theo nghề nuôi ong đã mấy chục năm. Nghe ông rỉ rả mới hay nghề nuôi ong sao mà cầu kỳ và cũng chẳng khác dân “du mục” là mấy. Đơn giản, “con ong làm mật yêu hoa”, quanh năm người nuôi ong phải đưa đàn ong đến những vùng có nhiều cây, nhiều hoa, như Vườn quốc gia Xuân Thủy này (nhiều hoa sú vẹt) để ong làm mật. “Trước khi về đây, tôi “ăn dầm ở dề” cả tháng trên mạn vải Bắc Giang. Trước nữa thì lang thang cùng đàn ong trong các rẫy cà-phê ở mãi Tây Nguyên...”, ông kể.

Cách chỗ cha con ông Giang một đoạn có một chiếc quán nhỏ, nằm ngay lối đường thủy vào sâu vùng lõi. Cạnh đó, gặp ngày vắng chiếc thuyền khách nằm ơ hờ trên mặt nước. Bước vào quán, chúng tôi thấy hai phụ nữ trung niên nhàn tản, ngồi nhổ tóc sâu cho nhau, bên cạnh là chiếc tủ chứa nhiều chai lọ đựng mật ong, rượu ngâm ấu trùng ong. “Thần dược, đặc sản của Vườn đấy, một người khỏe hai người vui, các chú mua đi!”, hai chị vui vẻ mời chào.

Một góc vùng lõi Vườn quốc gia Xuân Thủy.

Quản lý dựa vào cộng đồng

Ông Nguyễn Viết Cách, Giám đốc Vườn quốc gia Xuân Thủy là người có vẻ ngoài giản dị, nói năng nhẹ nhàng, khúc chiết. Xuyên suốt câu chuyện ông chia sẻ là làm thế nào để vừa quản lý, bảo vệ tốt hệ sinh thái vừa khai thác hiệu quả các nguồn lợi của vùng đất ngập nước vùng cửa sông mà cả vùng đệm và vùng lõi rộng tới hơn 15.000 ha, tương đương diện tích một huyện đồng bằng này?

Nói “làm thế nào” là bởi - như lời ông Cách - nguồn lợi sản vật ở đây rất lớn, đa dạng. Từ xa xưa, trước khi có Vườn, người dân vùng đệm đã hiện diện ở đây, lấy khai thác các sản vật ở các đầm bãi, dưới tán rừng là sinh kế chính. Tất nhiên, chẳng theo luật lệ nào, “mạnh ai nấy làm” và thường bằng các biện pháp thiếu tính bền vững. Kể từ khi Việt Nam tham gia Công ước quốc tế Ramsar (năm 1989, về bảo tồn và sử dụng một cách hợp lý và thích đáng các vùng đất ngập nước), nhất là khi Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Thủy được nâng cấp thành Vườn quốc gia (năm 2003), được UNESCO công nhận nằm trong vùng lõi Khu dự trữ sinh quyển thế giới vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng (năm 2004) các quy định về bảo tồn, phát huy các giá trị của vùng đất ngập nước này mới từng bước được thiết lập, theo hướng ngày càng chặt chẽ hơn. Nói vậy không có nghĩa từ đó đến nay hệ sinh thái nơi đây không còn bị những tác động tiêu cực. Đơn giản, diện tích Vườn quá rộng, lực lượng của cả Vườn và chính quyền địa phương mỏng, áp lực sinh kế của người dân lại lớn. “Ước tính, hơn 1.000 ha rừng trong vùng lõi cho người dân khoản thu nhập khoảng 60 tỷ/năm chỉ từ riêng việc khai thác thủy sản. Vào Vườn đi mò một ngày, một người có thể có thu nhập từ 300.000-500.000 đồng, bằng thu nhập cấy một sào lúa trong mấy tháng. Lợi ích lớn như vậy chỉ cấm đoán thì không hiệu quả!”, ông Cách nhìn nhận.

Trong bối cảnh đó, theo vị giám đốc, cơ chế đồng quản lý để cùng bảo vệ, cùng chia sẻ lợi ích từ rừng, từ đầm bãi là một lựa chọn hữu hiệu. Theo đó, được Chính phủ, chính quyền địa phương cho phép; được tư vấn, tài trợ của một số tổ chức phi chính phủ, thời gian qua mô hình này đã được Vườn phối hợp thí điểm triển khai ở một số khu vực, gồm hai mô hình đồng quản lý về rừng ngập mặn ở vùng lõi và vùng đệm; về sử dụng bền vững tài nguyên dược liệu ở khu vực Cồn Lu; về khai thác bền vững tài nguyên ngao giống ở vùng cửa sông Hồng; về quản lý khu nuôi ngao quảng canh bền vững và về sử dụng khôn khéo tài nguyên rừng ngập mặn. Trước khi triển khai, theo ông Cách, là hàng loạt các hoạt động truyền thông, tham vấn, tập huấn, ký cam kết. Điểm nhấn của các mô hình là người dân được giao đất, được trao quyền khai thác các nguồn lợi dưới tán rừng trên cơ sở phải tuân thủ nghiêm các quy định về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm. “Hiệu quả của các mô hình này rất tốt. Từ chỗ vi phạm pháp luật, người dân được trao quyền, được thực hiện các sinh kế trong đất Vườn một cách chính danh. Phía Vườn, chính quyền địa phương, các lực lượng chức năng cũng “nhẹ gánh” hơn, chỉ phải tập trung lo việc giám sát. Trách nhiệm, quyền lợi của các bên liên quan được xác định rõ ràng, không còn “hỗn mang” như trước. Những mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển tồn tại lâu nay nhờ vậy từng bước được giải quyết”, ông Cách phân tích.

Chia sẻ của ông Cách làm chúng tôi nhớ lại, khi được hỏi chuyện làm ăn, chị Tám - một chủ đầm nuôi tôm chúng tôi gặp trên đê sông Trà - chỉ nói ngắn gọn: “Bên này (vùng đệm) thì được phép cải tạo nuôi trồng, bên kia (vùng lõi) thì bẻ một cành cây cũng bị đi tù”. Lời chị Tám phần nào cho thấy người dân ở đây đã ý thức rất rõ quyền lợi, trách nhiệm của mình, được và không được phép làm gì. Cũng phải thôi, rừng ngập mặn ven biển được ví như “bức tường xanh” bảo vệ đê biển, bảo vệ xóm làng trước gió bão. Rừng còn thì sinh kế, nguồn sống của người dân còn và ngược lại.

Có thể bạn quan tâm

Mỗi phiên chợ giao dịch hàng nghìn con trâu, bò với giá trị trên dưới 50 tỷ đồng.

Chợ trâu, bò giữa lưng trời

Khi sương mù còn đặc quánh, phủ trắng trên những mái nhà sàn, thì ở một thung lũng nhỏ nơi lưng chừng núi Nghiên Loan, nhịp sống đã hối hả. Đó là phiên chợ "đặc biệt" của cả khu vực miền núi phía bắc - Chợ trâu, bò Nghiên Loan (xã Nghiên Loan, Thái Nguyên).

Đoàn Thái Cúc Hương.

Thế giới cổ tích từ giấy dó

Một tâm hồn nghệ sĩ, một bàn tay khéo léo như nghệ nhân, những câu chuyện bất tận về văn hóa truyền thống và luôn khiêm tốn nhận mình là một thợ thủ công.

Nghệ nhân Nguyễn Phương Uyên tạo dáng cho bonsai mini.

Hơn cả một thú chơi

Nằm trên đường Tô Hiến Thành, phường Nghĩa Lộ, tỉnh Quảng Ngãi, ngôi nhà của ông Nguyễn Phương Uyên (54 tuổi) nổi bật hơn hẳn nhờ hàng chục chậu cây bonsai.

Thầy Nam cần mẫn với mô hình du lịch sinh thái. Ảnh: BẢO LONG

Từ bục giảng đến miền quả ngọt

Ở phường Chũ (tỉnh Bắc Ninh), có một người thầy giáo không chỉ truyền cảm hứng trên bục giảng, mà còn mang nhiệt huyết và sự sáng tạo của nghệ thuật để góp phần tạo nên một không gian du lịch xanh. Đó là thầy Đinh Phương Nam, thầy giáo dạy mỹ thuật theo đuổi mô hình du lịch nông nghiệp-sinh thái ở đồng bằng Bắc Bộ.

Tên lửa vác vai A72. Ảnh: Bảo tàng Phòng không - Không quân

Bí mật của 60 giây quyết định

“Có mấy năm thôi mà", Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Thoa nói thế khi chúng tôi hỏi về những ngày quân ngũ, vác trên vai chiếc tên lửa A72 và hạ gục bao nhiêu máy bay Mỹ - ngụy.

"Bố" Kiên và bé Di tại lớp học ở Cát Cát.

Mái ấm ở thung lũng Cát Cát

Tôi đến Cát Cát (phường Sa Pa, tỉnh Lào Cai), bản làng người H'Mông được du khách ví như viên ngọc đẹp nhất Tây Bắc. Tiết trời trong nhưng sương mù vẫn đùn lên từ phía dưới thung lũng Ý Lình Hồ như những đụn bông trắng tinh.

Tại một địa điểm giao lưu của nhiều người yêu đĩa than tại Hà Nội.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

La Quốc Bảo đánh giá hiện trạng chiếc áo cưới hoàng gia triều Nguyễn vừa được sưu tầm từ Hà Lan.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Nguyễn Ngọc Minh Trang kể chuyện di sản bằng logo.

Trang Faifo và hành trình kể chuyện di sản

Trang Faifo chính là Nguyễn Ngọc Minh Trang, 23 tuổi, một nhà thiết kế đồ họa trẻ với tư duy dám nghĩ, dám thể hiện cá tính cá nhân. Niềm đam mê văn hóa quê hương đã tạo bệ phóng cho cô tỏa sáng, mang bản sắc nghệ thuật Việt.

Dưới làn nước xanh này là hơn 20 căn nhà sàn của người dân Kim Vân. Ảnh: TÙNG VÂN

Ám ảnh ở “rốn ngập” Kim Vân

Kim Vân là thôn vùng lõi Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ, thuộc xã Văn Lang, tỉnh Thái Nguyên, nằm trong một "lòng chảo" lớn bao bọc bởi núi đá. Đất canh tác hạn chế, cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây muôn vàn khó khăn với hơn một nửa trong tổng số 112 hộ dân nghèo và cận nghèo.

Bác sĩ Nguyễn Văn Quốc Trí đang khám cho bệnh nhân.

Như mây trắng A Xan

Con đường ngoằn ngoèo vượt qua bao triền núi, vắt mình giữa những quầng mây trắng đưa chúng tôi đến xã Hùng Sơn (trước đây là các xã A Xan, Tr’Hy, Ga Ry, Ch’Ơm của tỉnh Quảng Nam) - vùng đất tận cùng phía tây thành phố Đà Nẵng giáp biên giới nước bạn Lào.

Bà Vàng Thị Sỏng trong căn bếp của người La Chí.

Triết lý của những người phụ nữ

Mỗi bận chồng đánh, Lý Tả Mẩy hay ra chợ Sa Pa ngồi khóc. Đánh lại chồng thì không đủ sức, bỏ thì không được vì lấy rồi thì ai lại bỏ, Mẩy nghĩ mình phải tự lập, nhưng Mẩy chưa biết làm gì. Nên Mẩy vừa mang đồ ra chợ bán, vừa ngồi khóc, vừa nghĩ.

Bà Nguyệt đi phát gạo cho người dân vùng ngập nước.

Ở nơi có những đùm bọc, sẻ chia

Một tâm trạng rất khó tả khi chúng tôi cùng với Đoàn thiện nguyện CLB Nhà báo nữ Việt Nam đi lên Thái Nguyên để đến Trung tâm Bảo trợ xã hội (TT BTXH) Hường Hà Nguyệt, nằm trên đất xã Đồng Hỷ. Gần như là bàng hoàng, thậm chí rớt nước mắt vì vẻ tiêu điều không tránh khỏi.

Học sinh Trường THPT Chuyên Bắc Kạn giúp dọn dẹp, vệ sinh môi trường tại Trường THPT Chuyên Thái Nguyên.

Tình người vượt qua lũ dữ

Đêm 7/10, mưa như trút nước, nước sông Cầu dâng cao, tràn qua đê đổ xô vào các phường trung tâm của Thái Nguyên. Chưa đầy hai tiếng đồng hồ, cả khu vực trung tâm chìm trong biển nước. Giữa đêm tối, nhiều hộ dân nhanh chóng bị cô lập, nhiều người phải trèo lên tầng ba, nóc nhà gọi cứu hộ.

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Dù nói là chỉ hoạt động mỗi thứ tư hằng tuần, nhưng không ngày nào lớp học chầu văn của nghệ sĩ Tuyết Tuyết (trong ảnh) ngưng tiếng hát. Điệu xá, điệu dọc, cờn, phú cứ tang tính tình vang lên. Các em học sinh đến đây học miễn phí còn được mẹ Tuyết bồi dưỡng tiền đi lại, quà vặt.

TS Lê Bá Khánh Trình chụp hình cùng đội tuyển Trường Phổ thông Năng khiếu năm 2024. Ảnh: NVCC

Toán học và cuộc đời

TS Lê Bá Khánh Trình hay nói vui, rằng ông có duyên với Toán học nên ngay cả lúc về hưu, tưởng rảnh lại thành bận. Ở tuổi 63, người nhà vẫn thấy ông ngày ngày đăm chiêu nghĩ đề Toán mới, thêm cách giảng hay để truyền cảm hứng, kinh nghiệm cho học trò trên chặng đường chinh phục các giải đấu lớn.

Một trong những vườn hồng trên đỉnh Khưa Dầy. Ảnh: TÙNG VÂN

“Làm tươi” hồng cổ trên đỉnh Nà Chom

Đến Nà Chom vào dịp thu sang, trên đỉnh Khưa Phát, Khưa Dầy, giữa tiếng chim hót, gió reo rì rào là bóng những cây hồng cổ thụ. Với tuổi đời từ vài chục đến hàng trăm năm, chúng không chỉ là chứng nhân của thời gian mà còn là báu vật vô giá, kết tinh hương vị ngọt ngào của mảnh đất và con người nơi đây.

Chị Lê Thị Hà tạo phôi trên thân gỗ trắc đen.

Tài hoa đặc biệt của cô gái Gò Nổi

Ngày trước, xã Gò Nổi (thành phố Đà Nẵng) từng là vùng ươm tơ dệt lụa nổi tiếng. Con gái Gò Nổi siêng năng, chăm chỉ với câu ca dao: “Tiếng đồn con gái Bảo An (Gò Nổi). Sáng thời dệt cửi, chiều đan mành mành”.

Học viên trao đổi bài học.

Những lớp học đặc biệt giữa đại ngàn

Khi ánh nắng cuối ngày buông dần sau núi, những “học viên đặc biệt” ở tuổi xế chiều tại các thôn, bản vùng cao lại rời nương rẫy về nhà để chuẩn bị đến lớp học cái chữ. Những học trò ấy đã bước qua nửa đời người, mái tóc đã bạc, đôi tay chai sạn, nay cầm bút với khao khát viết tiếp giấc mơ con chữ còn dang dở.

Ông Hùng hướng dẫn học trò làm mã cổ.

Bạc vàng hàng mã (kỳ 1)

Hàng mã vốn không xa lạ trong đời sống thường ngày của người dân Việt Nam. Hàng mã mang tính chất “thế” cho đồ vật, con vật, thậm chí cả người, nhằm “hiến” về cõi xa xăm, qua đó thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng một cách bức thiết mà bớt đi sự tốn kém.

Hải sản tươi ngon tại chợ Gú. Ảnh: LƯƠNG HÀ

Người về chợ Gú

Chợ Gú nằm ngay bên đường Hổ Đội, xã Thái Thụy, tỉnh Hưng Yên, sát bờ tả của sông Diêm Điền. Từ xưa, chợ Gú vốn là cảng cá của tàu thuyền mỗi chiều về neo đậu. Chợ họp cả ngày. Buổi sáng, hàng hóa là các thứ thu hoạch được trong đồng, ngoài bãi.

Lò làm sợi cao lầu của gia đình ông Trái đang hoàn thiện những khâu cuối cùng.

Thương sợi cao lầu

Nhìn chiếc đồng hồ ám khói treo trên tường, thấy điểm 5 giờ 15 phút, anh Tạ Ngọc Hồng (xã Cẩm Châu, TP Hội An, nay là phường Hội An Đông, TP Đà Nẵng) nhẹ nhàng mở xửng hấp trên bếp củi bập bùng. Khói tỏa nghi ngút, mùi gạo và nước tro quyện vào nhau, thơm ngát.

Già Hoàng Văn Cầu chế tác mặt nạ Ka Đong.

Huyền bí mặt nạ Ka Đong

Giữa bản làng dân tộc Sán Chỉ, dưới mái nhà sàn luôn lưu giữ những chiếc mặt nạ mang ý nghĩa tâm linh với tên Ka Đong. Những chiếc mặt nạ gỗ, nhiều mầu sắc, thậm chí khá dữ tợn lại ẩn sâu giá trị tốt đẹp về bản sắc văn hóa và ước mơ, mong mỏi về cuộc sống yên bình, no ấm.