Người Đan Lai “lột xác”

Sau hơn hai giờ, chiếc thuyền “đuôi én” đưa chúng tôi vượt hàng trăm ghềnh đá chìm nổi ngược sông Giăng đến với bản Cò Phạt - bản đầu tiên của tộc người Đan Lai giữa vùng lõm Vườn quốc gia Pù Mát thuộc xã Môn Sơn, huyện Con Cuông (Nghệ An). Hình ảnh khác lạ đầu tiên hiện trước mắt chúng tôi là rất đông nam nữ người Đan Lai đứng trên bờ sông đưa tay vẫy chào khách, vẻ phấn khích.

Gian hàng người Đan Lai trong Hội chợ phiên đầu xuân tại xã Môn Sơn.
Gian hàng người Đan Lai trong Hội chợ phiên đầu xuân tại xã Môn Sơn.

Náo nức tiếng máy cày

Giữa chốn sơn cùng thủy tận, chúng tôi ngỡ ngàng khi nghe tiếng máy cày náo nức sau những lùm cây bao quanh phía trước bản Cò Phạt. Chúng tôi háo hức như những đứa trẻ ở quê lần đầu nhìn thấy chiếc máy cày đang phăm phăm dọc ngang trên ruộng nước hình “tay áo” của tộc người Đan Lai. Đại úy Nguyễn Trung Kiên, trưởng Trạm biên phòng Khe Khặng chỉ tay về phía chiếc máy cày lấm lem bùn đất, nói: “Máy cày của ông La Văn Đoàn, dân bản Cò Phạt đấy. Đây là vụ đông xuân đầu tiên đồng ruộng người Đan Lai có máy cày”.

Chúng tôi men theo bờ ruộng để chụp hình ông Đoàn đang điều khiển máy cày như điều khiển một báu vật của tộc người này. Ông Đoàn giải thích: “Cả đời mô biết máy cày, mua về tự mày mò rồi mần luôn”. Sở dĩ ông Đoàn mua máy cày là do “nhà không có tru (trâu) nên phải dùng máy cày thay tru”. Ông bảo, cày ruộng của nhà mình xong thì cày thuê cho những nhà có tru còn nhỏ để kiếm tiền xăng. Nói đoạn, ông cười, phô hai hàm răng đen bóng. Chúng tôi ngạc nhiên về một người Đan Lai đã sắm được máy cày thì ông Đoàn nói: “Tiền vay ngân hàng 15 tiệu (triệu). Ta mới đủ sức mua máy cũ thôi. Vườn ta có 700 cây cam, tính gom tiền bán cam để trả nợ ngân hàng, lúa để ăn đợi đến mùa sau”.

Quanh thửa ruộng ông Đoàn đang cày có ba tốp gái bản Đan Lai đang mải mê cấy lúa. Thấy chúng tôi chụp ảnh, một cô gái nói: “Chụp phải mất tiền đó, tưởng bở”. Câu nói đùa của gái bản Đan Lai khiến chúng tôi ngạc nhiên về sự tinh nghịch không khác gì con gái dưới xuôi.

Rời “cánh đồng” bé nhỏ, chúng tôi đến nhà ông La Văn Linh, Bí thư Chi bộ bản Cò Phạt. Ông Linh cho hay, ngoài máy cày của ông Đoàn, còn có một máy cày nữa của ông La Văn Thìn. Nhờ có hai máy cày nên vụ đông xuân năm nay dân bản làm kịp thời vụ trên diện tích hơn 8 ha”. Hơn 8 ha, mỗi năm hai mùa đông xuân và hè thu, năng suất 3,5 tấn/ha thì 115 hộ (500 nhân khẩu) của bản Cò Phạt vẫn chưa đủ ăn nên hàng năm tỉnh phải hỗ trợ gạo. Ông Linh nói: “Nơi sống phải có đất cho dân trồng lúa. Lúa không đủ ăn thì phải có đất vệ rừng cho dân trồng cây keo, cây mía. Được thế thì bà con Đan Lai mới có sức phấn đấu theo đồng bào các dân tộc khác”.

Gái bản Đan Lai đang cấy lúa.

Chuyện đẻ ngồi…

Chứng minh cho sự “lột xác”của tộc người Đan Lai, ông Linh không ngần ngại nhắc lại những hủ tục truyền đời giống như cái “vòng kim cô” từng ngự trị bản mường bao đời nay. Đó là hủ tục đẻ ngồi; nhúng trẻ sơ sinh xuống nước sáu, bảy lần; đêm ngủ không được mắc màn; ngủ trên sạp nứa, sạp mét thay vì ngủ trên giường…

Chúng tôi nêu câu chuyện do ông La Văn Liễu (60 tuổi, hai vợ, 14 con) kể lại với hình ảnh - sản phụ khi sinh không nằm thay vì ngồi. Để ngồi vững, hai tay sản phụ nắm chặt sợi dây buộc từ xà nhà thả xuống vừa tầm tay với trước mặt. Theo ông Liễu, ngồi đẻ dễ hơn nằm vì nằm sợ con khó ra do dồn lên phía trước. Ông Linh bảo: “Ngày xưa mỗi cụm bản chỉ có hai - ba nhà. Thú dữ lại nhiều. Con khái (hổ) có thể rình chộp cả nhà bất cứ lúc nào nên đêm đến dân phải ngủ ngồi để nghe động là chạy ngay. Có ông chồng làm chòi trên cành cây, đưa vợ con lên đó ngồi ngủ. Đẻ ngồi cũng do sợ khái vồ sinh ra. Vả lại, do không có người đỡ đẻ nên họ tự ngồi đẻ trong nhà. Vợ đẻ xong, chồng đem con xuống suối rửa rồi nhúng sáu, bảy lần cho quen nước để không mắc bệnh cảm cúm. Đứa nào sống thì ba tuổi là biết bơi. Cứ thế nó khỏe mãi đến già”.

Theo ông Linh, giờ tục ngủ ngồi không còn nữa do bản mường không còn hoang vu như trước, thú dữ cũng “đi đâu cả rồi”. Bản lại có Trạm quân dân y kết hợp của Bộ đội Biên phòng, có giường đẻ hẳn hoi nên không còn ai ngồi đẻ ở nhà nữa.

Nam nữ thanh niên thay đổi bản mường

Chúng tôi đang vui chuyện thì một cô gái Đan Lai từ ruộng về. Ông Linh giới thiệu đó là con gái thứ ba của ông, tên La Thị Sài. Ông bảo: “Nó đi cấy lúa về đấy”. Nghe vậy, Sài lên tiếng: “Lúc nãy, cháu đùa thế các chú có chụp được ảnh không”. Hóa ra cô gái nói vẻ tinh nghịch là đây.

Sài là cô gái Đan Lai đầu tiên được UBND xã Môn Sơn giới thiệu cho công ty đưa người đi xuất khẩu lao động sang Ả Rập Xê Út từ năm 2016. Chuyện xuất ngoại của Sài lại khiến chúng tôi ngạc nhiên bởi khi “mới tám tuổi đã theo chị đi hái măng, lấy củi hai, ba ngày trong rừng. Lớn lên, men theo khe suối ra trung tâm xã học hết THPT rồi sang tận Ả Rập Xê Út lao động kiếm tiền”.

Sài tâm sự, ngoài số tiền ít ỏi gom góp được về giúp cha mẹ sửa chữa lại ngôi nhà sàn rách nát không quan trọng bằng tuổi trẻ của đời mình không bị chết chìm giữa núi cao, rừng sâu thay vì được làm việc, tiếp xúc với xã hội bên ngoài, nơi có cuộc sống văn minh hơn dân tộc nhỏ bé của mình. Nhớ buổi đầu ấy, Sài không giấu giếm tâm lý hoang mang của một cô gái Đan Lai khi rời bản: “Lúc đầu đi cháu sợ người ta bắt lắm. Nhưng thấy cô giáo La Thị Hằng đi dạy tiểu học, lấy chồng là anh Vi Văn Thảo, Bí thư xã đoàn Môn Sơn nên nghĩ, mọi người đi ra sẽ làm thay đổi được cuộc sống cho giống nòi thì cháu mới dám đi”. Thấy Sài đi yên ổn, em trai của Sài cũng đi xuất khẩu lao động bên Malaysia. Sau chị em Sài, hiện có sáu thanh niên bản Cò Phạt đang lao động ở nước ngoài.

Ông La Văm Tám, trưởng bản Cò Phạt nêu thêm một thay đổi không ngờ tới: “Trai, gái Đan Lai đi ra, mang nhận thức từ xã hội về làm thay đổi bản mình. Thay đổi lớn nhất là chính lớp trẻ này đã phá vỡ hủ tục hôn nhân cận huyết do trước đây quanh năm sống co cụm trong rừng nên anh em lớn lên chỉ biết lấy nhau vì không biết lấy ai. Giờ có tám nam nữ thanh niên đi làm công nhân ở miền nam thì ba người lấy vợ người Kinh, năm người lấy chồng thuộc các dân tộc khác ở các tỉnh Kiên Giang, Tây Ninh…”.

XÂY DỰNG BẢN CÒ PHẠT THÀNH ĐIỂM DU LỊCH
“Huyện đang bảo tồn ngôn ngữ, lưu giữ mái nhà tranh của người Đan Lai để xây dựng bản Cò Phạt thành điểm du lịch độc đáo. Năm 2013, huyện thực hiện dự án tái định cư đồng bào Đan Lai của Trung ương, mở tuyến đường song song sông Giăng, dài hơn 20 km. Hiện đi xe máy từ trung tâm xã Môn Sơn vào bản Cò Phạt mất khoảng 1 giờ. Huyện đang kêu gọi đầu tư rải nhựa tuyến đường để giảm thời gian xuống 20 phút. Dịp Tết Nguyên đán 2019, lần đầu tiên huyện tổ chức Hội chợ phiên của 13 xã, thị trấn tại Mường Quạ, xã Môn Sơn, giới thiệu sản phẩm của đồng bào các dân tộc trong huyện. Ngoài 13 gian hàng của 13 xã, thị trấn, huyện dành riêng một gian hàng cho tộc người Đan Lai. Mặc dù bà con chỉ bày bán những củ sắn, đọt chuối rừng, lá rừng để nấu canh nhưng đây là “cú huých” để bà con Đan Lai xóa bỏ tâm lý tự ti, sống khép kín, dần dần tiếp xúc với kinh tế thị trường” (Ông Vi Văn Sơn - Chủ tịch UBND huyện Con Cuông).
BỘ TỘC KHOẢNG HƠN 3.000 NGƯỜI Người Đan Lai cư trú ở độ cao hơn 1.200 m so mặt nước biển tại các bản Cò Phạt, Khe Khặng và bản Búng, bản Cồn thuộc xã Môn Sơn, huyện Con Cuông. Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ duyệt đề án “Bảo tồn và Phát triển bền vững tộc người thiểu số Đan Lai”, tổng kinh phí 93 tỷ đồng. Theo đó, Chính phủ sẽ tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông, thủy lợi, y tế, giáo dục và đào tạo tại các khu vực người Đan Lai sinh sống để giúp bà con mở rộng quan hệ giao lưu với các dân tộc khác trên địa bàn.

Có thể bạn quan tâm

Mỗi phiên chợ giao dịch hàng nghìn con trâu, bò với giá trị trên dưới 50 tỷ đồng.

Chợ trâu, bò giữa lưng trời

Khi sương mù còn đặc quánh, phủ trắng trên những mái nhà sàn, thì ở một thung lũng nhỏ nơi lưng chừng núi Nghiên Loan, nhịp sống đã hối hả. Đó là phiên chợ "đặc biệt" của cả khu vực miền núi phía bắc - Chợ trâu, bò Nghiên Loan (xã Nghiên Loan, Thái Nguyên).

Đoàn Thái Cúc Hương.

Thế giới cổ tích từ giấy dó

Một tâm hồn nghệ sĩ, một bàn tay khéo léo như nghệ nhân, những câu chuyện bất tận về văn hóa truyền thống và luôn khiêm tốn nhận mình là một thợ thủ công.

Nghệ nhân Nguyễn Phương Uyên tạo dáng cho bonsai mini.

Hơn cả một thú chơi

Nằm trên đường Tô Hiến Thành, phường Nghĩa Lộ, tỉnh Quảng Ngãi, ngôi nhà của ông Nguyễn Phương Uyên (54 tuổi) nổi bật hơn hẳn nhờ hàng chục chậu cây bonsai.

Thầy Nam cần mẫn với mô hình du lịch sinh thái. Ảnh: BẢO LONG

Từ bục giảng đến miền quả ngọt

Ở phường Chũ (tỉnh Bắc Ninh), có một người thầy giáo không chỉ truyền cảm hứng trên bục giảng, mà còn mang nhiệt huyết và sự sáng tạo của nghệ thuật để góp phần tạo nên một không gian du lịch xanh. Đó là thầy Đinh Phương Nam, thầy giáo dạy mỹ thuật theo đuổi mô hình du lịch nông nghiệp-sinh thái ở đồng bằng Bắc Bộ.

Tên lửa vác vai A72. Ảnh: Bảo tàng Phòng không - Không quân

Bí mật của 60 giây quyết định

“Có mấy năm thôi mà", Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Thoa nói thế khi chúng tôi hỏi về những ngày quân ngũ, vác trên vai chiếc tên lửa A72 và hạ gục bao nhiêu máy bay Mỹ - ngụy.

"Bố" Kiên và bé Di tại lớp học ở Cát Cát.

Mái ấm ở thung lũng Cát Cát

Tôi đến Cát Cát (phường Sa Pa, tỉnh Lào Cai), bản làng người H'Mông được du khách ví như viên ngọc đẹp nhất Tây Bắc. Tiết trời trong nhưng sương mù vẫn đùn lên từ phía dưới thung lũng Ý Lình Hồ như những đụn bông trắng tinh.

Tại một địa điểm giao lưu của nhiều người yêu đĩa than tại Hà Nội.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

La Quốc Bảo đánh giá hiện trạng chiếc áo cưới hoàng gia triều Nguyễn vừa được sưu tầm từ Hà Lan.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Nguyễn Ngọc Minh Trang kể chuyện di sản bằng logo.

Trang Faifo và hành trình kể chuyện di sản

Trang Faifo chính là Nguyễn Ngọc Minh Trang, 23 tuổi, một nhà thiết kế đồ họa trẻ với tư duy dám nghĩ, dám thể hiện cá tính cá nhân. Niềm đam mê văn hóa quê hương đã tạo bệ phóng cho cô tỏa sáng, mang bản sắc nghệ thuật Việt.

Dưới làn nước xanh này là hơn 20 căn nhà sàn của người dân Kim Vân. Ảnh: TÙNG VÂN

Ám ảnh ở “rốn ngập” Kim Vân

Kim Vân là thôn vùng lõi Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ, thuộc xã Văn Lang, tỉnh Thái Nguyên, nằm trong một "lòng chảo" lớn bao bọc bởi núi đá. Đất canh tác hạn chế, cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây muôn vàn khó khăn với hơn một nửa trong tổng số 112 hộ dân nghèo và cận nghèo.

Bác sĩ Nguyễn Văn Quốc Trí đang khám cho bệnh nhân.

Như mây trắng A Xan

Con đường ngoằn ngoèo vượt qua bao triền núi, vắt mình giữa những quầng mây trắng đưa chúng tôi đến xã Hùng Sơn (trước đây là các xã A Xan, Tr’Hy, Ga Ry, Ch’Ơm của tỉnh Quảng Nam) - vùng đất tận cùng phía tây thành phố Đà Nẵng giáp biên giới nước bạn Lào.

Bà Vàng Thị Sỏng trong căn bếp của người La Chí.

Triết lý của những người phụ nữ

Mỗi bận chồng đánh, Lý Tả Mẩy hay ra chợ Sa Pa ngồi khóc. Đánh lại chồng thì không đủ sức, bỏ thì không được vì lấy rồi thì ai lại bỏ, Mẩy nghĩ mình phải tự lập, nhưng Mẩy chưa biết làm gì. Nên Mẩy vừa mang đồ ra chợ bán, vừa ngồi khóc, vừa nghĩ.

Bà Nguyệt đi phát gạo cho người dân vùng ngập nước.

Ở nơi có những đùm bọc, sẻ chia

Một tâm trạng rất khó tả khi chúng tôi cùng với Đoàn thiện nguyện CLB Nhà báo nữ Việt Nam đi lên Thái Nguyên để đến Trung tâm Bảo trợ xã hội (TT BTXH) Hường Hà Nguyệt, nằm trên đất xã Đồng Hỷ. Gần như là bàng hoàng, thậm chí rớt nước mắt vì vẻ tiêu điều không tránh khỏi.

Học sinh Trường THPT Chuyên Bắc Kạn giúp dọn dẹp, vệ sinh môi trường tại Trường THPT Chuyên Thái Nguyên.

Tình người vượt qua lũ dữ

Đêm 7/10, mưa như trút nước, nước sông Cầu dâng cao, tràn qua đê đổ xô vào các phường trung tâm của Thái Nguyên. Chưa đầy hai tiếng đồng hồ, cả khu vực trung tâm chìm trong biển nước. Giữa đêm tối, nhiều hộ dân nhanh chóng bị cô lập, nhiều người phải trèo lên tầng ba, nóc nhà gọi cứu hộ.

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Dù nói là chỉ hoạt động mỗi thứ tư hằng tuần, nhưng không ngày nào lớp học chầu văn của nghệ sĩ Tuyết Tuyết (trong ảnh) ngưng tiếng hát. Điệu xá, điệu dọc, cờn, phú cứ tang tính tình vang lên. Các em học sinh đến đây học miễn phí còn được mẹ Tuyết bồi dưỡng tiền đi lại, quà vặt.

TS Lê Bá Khánh Trình chụp hình cùng đội tuyển Trường Phổ thông Năng khiếu năm 2024. Ảnh: NVCC

Toán học và cuộc đời

TS Lê Bá Khánh Trình hay nói vui, rằng ông có duyên với Toán học nên ngay cả lúc về hưu, tưởng rảnh lại thành bận. Ở tuổi 63, người nhà vẫn thấy ông ngày ngày đăm chiêu nghĩ đề Toán mới, thêm cách giảng hay để truyền cảm hứng, kinh nghiệm cho học trò trên chặng đường chinh phục các giải đấu lớn.

Một trong những vườn hồng trên đỉnh Khưa Dầy. Ảnh: TÙNG VÂN

“Làm tươi” hồng cổ trên đỉnh Nà Chom

Đến Nà Chom vào dịp thu sang, trên đỉnh Khưa Phát, Khưa Dầy, giữa tiếng chim hót, gió reo rì rào là bóng những cây hồng cổ thụ. Với tuổi đời từ vài chục đến hàng trăm năm, chúng không chỉ là chứng nhân của thời gian mà còn là báu vật vô giá, kết tinh hương vị ngọt ngào của mảnh đất và con người nơi đây.

Chị Lê Thị Hà tạo phôi trên thân gỗ trắc đen.

Tài hoa đặc biệt của cô gái Gò Nổi

Ngày trước, xã Gò Nổi (thành phố Đà Nẵng) từng là vùng ươm tơ dệt lụa nổi tiếng. Con gái Gò Nổi siêng năng, chăm chỉ với câu ca dao: “Tiếng đồn con gái Bảo An (Gò Nổi). Sáng thời dệt cửi, chiều đan mành mành”.

Học viên trao đổi bài học.

Những lớp học đặc biệt giữa đại ngàn

Khi ánh nắng cuối ngày buông dần sau núi, những “học viên đặc biệt” ở tuổi xế chiều tại các thôn, bản vùng cao lại rời nương rẫy về nhà để chuẩn bị đến lớp học cái chữ. Những học trò ấy đã bước qua nửa đời người, mái tóc đã bạc, đôi tay chai sạn, nay cầm bút với khao khát viết tiếp giấc mơ con chữ còn dang dở.

Ông Hùng hướng dẫn học trò làm mã cổ.

Bạc vàng hàng mã (kỳ 1)

Hàng mã vốn không xa lạ trong đời sống thường ngày của người dân Việt Nam. Hàng mã mang tính chất “thế” cho đồ vật, con vật, thậm chí cả người, nhằm “hiến” về cõi xa xăm, qua đó thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng một cách bức thiết mà bớt đi sự tốn kém.

Hải sản tươi ngon tại chợ Gú. Ảnh: LƯƠNG HÀ

Người về chợ Gú

Chợ Gú nằm ngay bên đường Hổ Đội, xã Thái Thụy, tỉnh Hưng Yên, sát bờ tả của sông Diêm Điền. Từ xưa, chợ Gú vốn là cảng cá của tàu thuyền mỗi chiều về neo đậu. Chợ họp cả ngày. Buổi sáng, hàng hóa là các thứ thu hoạch được trong đồng, ngoài bãi.

Lò làm sợi cao lầu của gia đình ông Trái đang hoàn thiện những khâu cuối cùng.

Thương sợi cao lầu

Nhìn chiếc đồng hồ ám khói treo trên tường, thấy điểm 5 giờ 15 phút, anh Tạ Ngọc Hồng (xã Cẩm Châu, TP Hội An, nay là phường Hội An Đông, TP Đà Nẵng) nhẹ nhàng mở xửng hấp trên bếp củi bập bùng. Khói tỏa nghi ngút, mùi gạo và nước tro quyện vào nhau, thơm ngát.

Già Hoàng Văn Cầu chế tác mặt nạ Ka Đong.

Huyền bí mặt nạ Ka Đong

Giữa bản làng dân tộc Sán Chỉ, dưới mái nhà sàn luôn lưu giữ những chiếc mặt nạ mang ý nghĩa tâm linh với tên Ka Đong. Những chiếc mặt nạ gỗ, nhiều mầu sắc, thậm chí khá dữ tợn lại ẩn sâu giá trị tốt đẹp về bản sắc văn hóa và ước mơ, mong mỏi về cuộc sống yên bình, no ấm.