Huyền bí mặt nạ Ka Đong

Giữa bản làng dân tộc Sán Chỉ, dưới mái nhà sàn luôn lưu giữ những chiếc mặt nạ mang ý nghĩa tâm linh với tên Ka Đong. Những chiếc mặt nạ gỗ, nhiều mầu sắc, thậm chí khá dữ tợn lại ẩn sâu giá trị tốt đẹp về bản sắc văn hóa và ước mơ, mong mỏi về cuộc sống yên bình, no ấm.

Già Hoàng Văn Cầu chế tác mặt nạ Ka Đong.
Già Hoàng Văn Cầu chế tác mặt nạ Ka Đong.

Mặt nạ Ka Đong - hóa thân của thần linh

Xã Bằng Thành, tỉnh Thái Nguyên hiện có gần 200 hộ với hơn 900 nhân khẩu là đồng bào dân tộc Sán Chỉ. Nơi đây còn giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống độc đáo, đặc sắc và riêng biệt. Trong đó có mặt nạ Ka Đong và điệu múa mặt nạ Ka Đong (còn gọi là múa mặt nạ quỷ).

Tuyến đường quanh co, uốn lượn như dải lụa vắt qua những sườn đồi dẫn vào nơi sinh sống của hơn 30 hộ dân đồng bào Sán Chỉ thôn Khau Đấng. Dưới những mái nhà sàn, bên bếp hồng nhảy nhót ánh lửa hằng đêm, những câu chuyện về chiếc mặt nạ Ka Đong linh thiêng, huyền bí được truyền từ đời này qua đời khác. Già làng Hoàng Văn Cầu, người có uy tín của thôn chia sẻ: “Bà con trong thôn rất quý trọng văn hóa của dân tộc mình. Đối với đồng bào Sán Chỉ chúng tôi, chiếc mặt nạ Ka Đong không chỉ là một vật trang trí hay để biểu diễn trong các ngày hội làng, mà còn được coi như hiện thân của các vị thần bảo vệ dân làng trong cuộc sống hằng ngày, vì thế, hầu như gia đình nào cũng có chiếc mặt nạ Ka Đong”.

Theo quan niệm ông cha người Sán Chỉ, ngày xưa, trong quá trình di cư để sinh tồn, do nhiều thú dữ, ác quỷ, ma quái làm hại người nên chiếc mặt nạ được làm như mặt của ma quỷ để chúng không dám đến quấy rầy. Người đeo mặt nạ Ka Đong luôn mặc bộ quần áo rách rưới và mang theo những vật dụng phản ánh ký ức của người đàn ông trong quá trình di cư, săn bắt, hái lượm...

Trong các nghi lễ lớn của đồng bào Sán Chỉ, như lễ cầu mùa đầu năm và lễ trưởng thành (lễ cấp sắc)... đều có nghi lễ múa mặt nạ Ka Đong. Trong các nghi lễ này, thầy cúng tế lễ sẽ đeo mặt nạ Ka Đong, coi đây là sự xuất hiện của nhân vật đặc biệt này được ví như sự hiện diện của các vị thần linh. Người cúng tế lễ đeo mặt nạ Ka Đong trong các nghi lễ phải rành các điệu nhảy múa, có sức khỏe và làm ăn phát đạt, vợ chồng thuận hòa, con cái khỏe mạnh. Ở vũ điệu này, người đeo mặt nạ múa hai tay cầm hai que gỗ đan chéo vào nhau nhún nhảy theo nhịp trống, tạo nên không khí uy nghiêm quyền lực, sức sống mãnh liệt.

Chị Hoàng Thị Mộng sinh ra và lớn lên ở thôn Nà Lẩy, cũng là thôn chủ yếu là đồng bào Sán Chỉ, sau này lớn lên nên duyên vợ chồng với anh Hoàng Văn Thời, thôn Khau Đấng, vì thế, mặc dù thuộc thế hệ 9x nhưng cả hai vợ chồng rất hiểu và tôn trọng, gìn giữ phong tục, tập quán cùng những nghi lễ của đồng bào mình. Theo chị, đồng bào Sán Chỉ có nhiều văn hóa độc đáo, rất riêng, trong đó, văn hóa tâm linh từ chiếc mặt nạ và điệu múa mặt nạ Ka Đong thì chỉ có ở đồng bào Sán Chỉ thôn Khau Đấng, xã Bằng Thành.

Ở Khau Đấng, lễ lớn nhất trong năm của đồng bào là lễ cầu mùa, đây là lễ có ý nghĩa quan trọng để cầu cho một năm mới thóc lúa đầy nhà, lợn, gà đầy chuồng, nhà nhà, người người bình an, khỏe mạnh. Lễ được xem như dịp báo cáo các vị thần linh, các vị thổ công, thổ địa về kết quả trong một năm qua và thường được tổ chức vào mùng 9 tháng Giêng hằng năm. Tại buổi lễ này, thầy cúng và những bậc cao niên trong thôn sẽ đại diện cho cộng đồng thực hiện nghi lễ cúng tế… Sau phần lễ, là làn điệu dân ca đặc trưng của người Sán Chỉ và điệu múa mặt nạ Ka Đong thể hiện sự vui mừng để trêu đùa cùng những người có mặt trong buổi lễ... Điệu múa Ka Đong được coi như một hình thức nghi lễ đặc biệt, thể hiện ký ức cổ xưa, linh thiêng với những điều kiêng kỵ, không phải ai cũng có thể tùy tiện đeo mặt nạ Ka Đong.

Anh Hoàng Văn Tính, người thường được tham gia điệu múa mặt nạ Ka Đong trong các ngày lễ, hội ở thôn cho biết: Khi đeo mặt nạ Ka Đong cảm giác rất linh thiêng, mặt nạ Ka Đong mang những câu chuyện về nguồn cội, về khát vọng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, khơi dậy niềm tự hào dân tộc.

52.jpg
Một góc thôn Khâu Đấng, nơi lưu giữ, bảo tồn giá trị mặt nạ Ka Đong.

Nét đẹp tâm linh và trường tồn

Để chế tác được một mặt nạ Ka Đong là cả một quá trình phức tạp từ vật liệu cho đến kỹ thuật và thời gian. Loại gỗ được chọn làm mặt nạ Ka Đong phải là gỗ tốt, nhẹ, không co ngót, cong vênh để giữ được lâu dài và không gây mỏi mệt khi đeo lên mặt trong thời gian nhiều giờ làm việc nghi lễ. Công cụ để chế tác ra chiếc mặt nạ Ka Đong gồm rìu, dao, đục thô sơ để đẽo gọt. Để tạo ra hình khối của khuôn mặt đòi hỏi sự tỉ mỉ và tinh xảo trong chạm khắc từng chi tiết. Đôi mắt phải tạo được độ lồi và vẻ dữ tợn nhưng đầy linh khí; cái mũi phải tạo khối rõ ràng, to và thô. Cái miệng phải rộng, những chiếc răng phải nhe ra, thể hiện sức mạnh và khả năng trấn áp. Lông mày, gò má, cằm được gọt dũa tạo biểu cảm uy nghi, dữ tợn. Mặt nạ để mộc tự nhiên nhằm giữ được vẻ nguyên bản và linh thiêng của vật liệu, hoặc tô điểm bằng dán giấy đỏ, đen ở những chi tiết cần nhấn nhá.

Trong quá trình làm mặt nạ, người chế tác không chỉ tái hiện hình dáng mà còn gửi gắm vào đó linh hồn, những quan niệm về thần linh và mong ước của gia đình và cộng đồng. Theo quan niệm, mặt nạ càng kỳ dị, quỷ quái thì càng được đánh giá cao về mặt giá trị tâm linh và quyền lực. Chiếc mặt nạ hình mặt quỷ với nét hung dữ, kỳ quái đủ làm mất hồn người yếu bóng vía khi lần đầu nhìn thấy. Khi nhìn kỹ lại thấy sự kỳ công trong quá trình tạo tác của người chế tác. Mặt nạ Ka Đong không chỉ mang yếu tố mỹ thuật dân gian mà còn đóng vai trò quan trọng trong văn hóa tín ngưỡng. Cầm chiếc mặt nạ có cảm giác như thời gian lắng lại, khiến người chiêm ngưỡng bất giác phải tự chiêm nghiệm lại bản thân mình.

Chị Hoàng Thị Mộng hiện cũng là Bí thư Chi bộ thôn Khau Đấng. Là một lãnh đạo thôn, ở thế hệ 9x, chị hiểu mình cần có trách nhiệm để bảo tồn và phát huy giá trị di sản của đồng bào. Chị mong muốn có chính sách hỗ trợ, truyền dạy và những hoạt động quảng bá để đưa hình ảnh mặt nạ Ka Đong đến gần hơn với công chúng. Chỉ có như vậy, nét huyền bí và giá trị văn hóa đặc sắc mặt nạ Ka Đong của đồng bào Sán Chỉ mới được gìn giữ vẹn nguyên, trở thành một biểu tượng văn hóa độc đáo, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa đồng bào dân tộc Việt Nam.

Điều đáng mừng là giới trẻ không thờ ơ, lãng quên nét văn hóa độc đáo này. Nhiều năm qua, anh Hoàng Văn Thời, thôn Khau Đấng đã học múa mặt nạ và cả cách chế tác từ những bậc cao niên như già Hoàng Văn Cầu. Anh bảo, trong bản có nhiều người như anh vẫn luôn ý thức gìn giữ, bảo tồn văn hóa truyền thống của đồng bào mình mà cha ông để lại, cố gắng để nền văn hóa của đồng bào Sán Chỉ không bị mai một theo thời gian.

Đến với đồng bào Sán Chỉ ở thôn Khau Đấng, không chỉ tìm thấy một không gian yên bình của miền sơn cước, mà còn được bước vào một “bảo tàng sống” độc đáo, nơi thời gian dường như được cất giữ trọn vẹn. Nơi đây, mỗi nếp nhà lợp ngói âm dương đã nhuốm màu rêu phong đều là một nhân chứng kể lại bao thế hệ đã đi qua. Những câu chuyện cổ tích huyền bí về chiếc mặt nạ Ka Đong thiêng liêng, biểu tượng của sự kết nối giữa thế giới thực và tâm linh, được truyền miệng từ đời này sang đời khác, góp phần dệt nên một bức tranh văn hóa đậm đà bản sắc. Tất cả tạo nên một trải nghiệm không chỉ để ngắm nhìn mà còn để cảm nhận, để hòa mình vào dòng chảy văn hóa, lắng nghe những lời thầm thì của quá khứ.

Điều rất đặc biệt là thời gian để hình thành chiếc mặt nạ phải đủ 9 tháng 10 ngày như thời gian hình thành của một con người mới được sử dụng. “Mỗi tháng làm một ít, ngày nào cũng mang ra làm một tí rồi lại cất đi, đến đủ thời gian 9 tháng 10 ngày thì phải hoàn thành”, già Hoàng Văn Cầu cho biết.

Có thể bạn quan tâm

Mỗi phiên chợ giao dịch hàng nghìn con trâu, bò với giá trị trên dưới 50 tỷ đồng.

Chợ trâu, bò giữa lưng trời

Khi sương mù còn đặc quánh, phủ trắng trên những mái nhà sàn, thì ở một thung lũng nhỏ nơi lưng chừng núi Nghiên Loan, nhịp sống đã hối hả. Đó là phiên chợ "đặc biệt" của cả khu vực miền núi phía bắc - Chợ trâu, bò Nghiên Loan (xã Nghiên Loan, Thái Nguyên).

Đoàn Thái Cúc Hương.

Thế giới cổ tích từ giấy dó

Một tâm hồn nghệ sĩ, một bàn tay khéo léo như nghệ nhân, những câu chuyện bất tận về văn hóa truyền thống và luôn khiêm tốn nhận mình là một thợ thủ công.

Nghệ nhân Nguyễn Phương Uyên tạo dáng cho bonsai mini.

Hơn cả một thú chơi

Nằm trên đường Tô Hiến Thành, phường Nghĩa Lộ, tỉnh Quảng Ngãi, ngôi nhà của ông Nguyễn Phương Uyên (54 tuổi) nổi bật hơn hẳn nhờ hàng chục chậu cây bonsai.

Thầy Nam cần mẫn với mô hình du lịch sinh thái. Ảnh: BẢO LONG

Từ bục giảng đến miền quả ngọt

Ở phường Chũ (tỉnh Bắc Ninh), có một người thầy giáo không chỉ truyền cảm hứng trên bục giảng, mà còn mang nhiệt huyết và sự sáng tạo của nghệ thuật để góp phần tạo nên một không gian du lịch xanh. Đó là thầy Đinh Phương Nam, thầy giáo dạy mỹ thuật theo đuổi mô hình du lịch nông nghiệp-sinh thái ở đồng bằng Bắc Bộ.

Tên lửa vác vai A72. Ảnh: Bảo tàng Phòng không - Không quân

Bí mật của 60 giây quyết định

“Có mấy năm thôi mà", Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Thoa nói thế khi chúng tôi hỏi về những ngày quân ngũ, vác trên vai chiếc tên lửa A72 và hạ gục bao nhiêu máy bay Mỹ - ngụy.

"Bố" Kiên và bé Di tại lớp học ở Cát Cát.

Mái ấm ở thung lũng Cát Cát

Tôi đến Cát Cát (phường Sa Pa, tỉnh Lào Cai), bản làng người H'Mông được du khách ví như viên ngọc đẹp nhất Tây Bắc. Tiết trời trong nhưng sương mù vẫn đùn lên từ phía dưới thung lũng Ý Lình Hồ như những đụn bông trắng tinh.

Tại một địa điểm giao lưu của nhiều người yêu đĩa than tại Hà Nội.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

La Quốc Bảo đánh giá hiện trạng chiếc áo cưới hoàng gia triều Nguyễn vừa được sưu tầm từ Hà Lan.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Nguyễn Ngọc Minh Trang kể chuyện di sản bằng logo.

Trang Faifo và hành trình kể chuyện di sản

Trang Faifo chính là Nguyễn Ngọc Minh Trang, 23 tuổi, một nhà thiết kế đồ họa trẻ với tư duy dám nghĩ, dám thể hiện cá tính cá nhân. Niềm đam mê văn hóa quê hương đã tạo bệ phóng cho cô tỏa sáng, mang bản sắc nghệ thuật Việt.

Dưới làn nước xanh này là hơn 20 căn nhà sàn của người dân Kim Vân. Ảnh: TÙNG VÂN

Ám ảnh ở “rốn ngập” Kim Vân

Kim Vân là thôn vùng lõi Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ, thuộc xã Văn Lang, tỉnh Thái Nguyên, nằm trong một "lòng chảo" lớn bao bọc bởi núi đá. Đất canh tác hạn chế, cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây muôn vàn khó khăn với hơn một nửa trong tổng số 112 hộ dân nghèo và cận nghèo.

Bác sĩ Nguyễn Văn Quốc Trí đang khám cho bệnh nhân.

Như mây trắng A Xan

Con đường ngoằn ngoèo vượt qua bao triền núi, vắt mình giữa những quầng mây trắng đưa chúng tôi đến xã Hùng Sơn (trước đây là các xã A Xan, Tr’Hy, Ga Ry, Ch’Ơm của tỉnh Quảng Nam) - vùng đất tận cùng phía tây thành phố Đà Nẵng giáp biên giới nước bạn Lào.

Bà Vàng Thị Sỏng trong căn bếp của người La Chí.

Triết lý của những người phụ nữ

Mỗi bận chồng đánh, Lý Tả Mẩy hay ra chợ Sa Pa ngồi khóc. Đánh lại chồng thì không đủ sức, bỏ thì không được vì lấy rồi thì ai lại bỏ, Mẩy nghĩ mình phải tự lập, nhưng Mẩy chưa biết làm gì. Nên Mẩy vừa mang đồ ra chợ bán, vừa ngồi khóc, vừa nghĩ.

Bà Nguyệt đi phát gạo cho người dân vùng ngập nước.

Ở nơi có những đùm bọc, sẻ chia

Một tâm trạng rất khó tả khi chúng tôi cùng với Đoàn thiện nguyện CLB Nhà báo nữ Việt Nam đi lên Thái Nguyên để đến Trung tâm Bảo trợ xã hội (TT BTXH) Hường Hà Nguyệt, nằm trên đất xã Đồng Hỷ. Gần như là bàng hoàng, thậm chí rớt nước mắt vì vẻ tiêu điều không tránh khỏi.

Học sinh Trường THPT Chuyên Bắc Kạn giúp dọn dẹp, vệ sinh môi trường tại Trường THPT Chuyên Thái Nguyên.

Tình người vượt qua lũ dữ

Đêm 7/10, mưa như trút nước, nước sông Cầu dâng cao, tràn qua đê đổ xô vào các phường trung tâm của Thái Nguyên. Chưa đầy hai tiếng đồng hồ, cả khu vực trung tâm chìm trong biển nước. Giữa đêm tối, nhiều hộ dân nhanh chóng bị cô lập, nhiều người phải trèo lên tầng ba, nóc nhà gọi cứu hộ.

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Dù nói là chỉ hoạt động mỗi thứ tư hằng tuần, nhưng không ngày nào lớp học chầu văn của nghệ sĩ Tuyết Tuyết (trong ảnh) ngưng tiếng hát. Điệu xá, điệu dọc, cờn, phú cứ tang tính tình vang lên. Các em học sinh đến đây học miễn phí còn được mẹ Tuyết bồi dưỡng tiền đi lại, quà vặt.

TS Lê Bá Khánh Trình chụp hình cùng đội tuyển Trường Phổ thông Năng khiếu năm 2024. Ảnh: NVCC

Toán học và cuộc đời

TS Lê Bá Khánh Trình hay nói vui, rằng ông có duyên với Toán học nên ngay cả lúc về hưu, tưởng rảnh lại thành bận. Ở tuổi 63, người nhà vẫn thấy ông ngày ngày đăm chiêu nghĩ đề Toán mới, thêm cách giảng hay để truyền cảm hứng, kinh nghiệm cho học trò trên chặng đường chinh phục các giải đấu lớn.

Một trong những vườn hồng trên đỉnh Khưa Dầy. Ảnh: TÙNG VÂN

“Làm tươi” hồng cổ trên đỉnh Nà Chom

Đến Nà Chom vào dịp thu sang, trên đỉnh Khưa Phát, Khưa Dầy, giữa tiếng chim hót, gió reo rì rào là bóng những cây hồng cổ thụ. Với tuổi đời từ vài chục đến hàng trăm năm, chúng không chỉ là chứng nhân của thời gian mà còn là báu vật vô giá, kết tinh hương vị ngọt ngào của mảnh đất và con người nơi đây.

Chị Lê Thị Hà tạo phôi trên thân gỗ trắc đen.

Tài hoa đặc biệt của cô gái Gò Nổi

Ngày trước, xã Gò Nổi (thành phố Đà Nẵng) từng là vùng ươm tơ dệt lụa nổi tiếng. Con gái Gò Nổi siêng năng, chăm chỉ với câu ca dao: “Tiếng đồn con gái Bảo An (Gò Nổi). Sáng thời dệt cửi, chiều đan mành mành”.

Học viên trao đổi bài học.

Những lớp học đặc biệt giữa đại ngàn

Khi ánh nắng cuối ngày buông dần sau núi, những “học viên đặc biệt” ở tuổi xế chiều tại các thôn, bản vùng cao lại rời nương rẫy về nhà để chuẩn bị đến lớp học cái chữ. Những học trò ấy đã bước qua nửa đời người, mái tóc đã bạc, đôi tay chai sạn, nay cầm bút với khao khát viết tiếp giấc mơ con chữ còn dang dở.

Ông Hùng hướng dẫn học trò làm mã cổ.

Bạc vàng hàng mã (kỳ 1)

Hàng mã vốn không xa lạ trong đời sống thường ngày của người dân Việt Nam. Hàng mã mang tính chất “thế” cho đồ vật, con vật, thậm chí cả người, nhằm “hiến” về cõi xa xăm, qua đó thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng một cách bức thiết mà bớt đi sự tốn kém.

Hải sản tươi ngon tại chợ Gú. Ảnh: LƯƠNG HÀ

Người về chợ Gú

Chợ Gú nằm ngay bên đường Hổ Đội, xã Thái Thụy, tỉnh Hưng Yên, sát bờ tả của sông Diêm Điền. Từ xưa, chợ Gú vốn là cảng cá của tàu thuyền mỗi chiều về neo đậu. Chợ họp cả ngày. Buổi sáng, hàng hóa là các thứ thu hoạch được trong đồng, ngoài bãi.

Lò làm sợi cao lầu của gia đình ông Trái đang hoàn thiện những khâu cuối cùng.

Thương sợi cao lầu

Nhìn chiếc đồng hồ ám khói treo trên tường, thấy điểm 5 giờ 15 phút, anh Tạ Ngọc Hồng (xã Cẩm Châu, TP Hội An, nay là phường Hội An Đông, TP Đà Nẵng) nhẹ nhàng mở xửng hấp trên bếp củi bập bùng. Khói tỏa nghi ngút, mùi gạo và nước tro quyện vào nhau, thơm ngát.

Thu hoạch chè ở Long Cốc. Ảnh: ÚT MƯỜI

Hành trình “mở” đồi chè bát úp

Long Cốc, Phú Thọ hiện nay đã trở nên nổi tiếng với những đồi chè mê hoặc tựa như hàng trăm chiếc bát úp, xanh ngút ngàn giữa trung du, những trò chơi cảm giác mạnh và nét văn hóa bản địa của người Mường.