Thương sợi cao lầu

Nhìn chiếc đồng hồ ám khói treo trên tường, thấy điểm 5 giờ 15 phút, anh Tạ Ngọc Hồng (xã Cẩm Châu, TP Hội An, nay là phường Hội An Đông, TP Đà Nẵng) nhẹ nhàng mở xửng hấp trên bếp củi bập bùng. Khói tỏa nghi ngút, mùi gạo và nước tro quyện vào nhau, thơm ngát.

Lò làm sợi cao lầu của gia đình ông Trái đang hoàn thiện những khâu cuối cùng.
Lò làm sợi cao lầu của gia đình ông Trái đang hoàn thiện những khâu cuối cùng.

Xếp ngay ngắn mấy mẹt cao lầu vàng ngà trên giá tre, hong quạt cho nguội bớt, anh Hồng gọi với vào nhà: “Ba ơi! Xong rồi. Chuẩn bị ra chợ thôi”.

Nghề cha truyền con nối

Nghe tiếng con trai gọi, ông Tạ Ngọc Trái (69 tuổi) từ trong nhà bước ra sân, ngắm nghía thật kỹ từng mẹt cao lầu rồi cầm sổ kiểm tra lại số lượng bạn hàng đăng ký từ trước. Ông nói, số cao lầu này đa phần chia sẵn, mối quen ghé chợ lấy, phần còn lại bán lẻ cho người ta, tầm vài giờ là xong. Ngày nhiều đơn sẽ bán gần 200 ký, ít thì tầm 50-60 ký. Tiền công đủ lo cơm nước, chi tiêu hằng ngày. Nhìn con trai lui cui trong bếp, tay không ngớt việc, thi thoảng lại lấy khăn lau mồ hôi, ông Trái gật gù, tự nhận mình may mắn. “Chỗ thằng Hồng đứng ngày trước là của tôi, còn nó làm ruộng. Thấy cha già yếu, mấy năm rồi, nó tự nguyện thay tôi giữ nghề. Thằng Hồng là đời thứ năm của gia đình theo nghề cao lầu này. Có con trai nối nghiệp, tôi mừng lắm. Mừng chẳng phải vì từ giờ rảnh tay, được ngủ thẳng giấc mà vì nghề của cha ông không mai một”, ông Trái tranh thủ kể chuyện trước khi bắt tay vào việc.

Ông Trái có một người em song sinh tên Tạ Ngọc Em. Hai anh em cất nhà sát nhau, bao năm nay vẫn sáng đèn, miệt mài giữ nghề làm cao lầu của thế hệ trước. Hiện tại, ở Hội An, chỉ gia đình ông Trái, ông Em vẫn giữ nguyên kỹ thuật làm sợi cao lầu truyền thống, còn lại phần lớn đã chuyển sang gia công bằng máy. Nhiều khách gọi điện hẹn lịch ghé thăm, trải nghiệm làm cao lầu thủ công vì tò mò, ông Em đều đáp: “Cần gì phải hẹn, ngày nào chúng tôi không thức làm từ 1 giờ sáng. Cứ tìm nhà có bếp củi đỏ trong đêm mà vào, kiểu gì cũng gặp”. Đúng vậy, trong gian bếp nhuốm màu thời gian, khi bầu trời còn tối đen, vợ chồng ông Em đã tất bật với từng công đoạn để mọi thứ hoàn thành trước 6 giờ sáng.

Ngày nối ngày, tháng kết năm, những gian nhà cũ đỏ lửa giữa đêm tĩnh mịch đã trở thành hình ảnh thân thương với bao người dân sinh sống tại Cẩm Châu. Làm nghề này phải dậy từ 1 giờ sáng, cặm cụi suốt 5-6 giờ đồng hồ trong bếp với gần chục công đoạn, người nóng hổi, tay mỏi nhừ. Cao lầu là đặc sản nức tiếng trong vùng, du khách có dịp đến Hội An, ai cũng muốn thử nên việc sinh việc, các lò làm mãi không ngưng. Anh Hồng nói vui, ai chọn nghề làm sợi cao lầu thì chẳng lo thất nghiệp. Nhà nào làm đều phải chấp nhận cảnh bận rộn quanh năm, nghỉ đúng mồng 1 Tết. Các lò sản xuất như ông Trái, ông Em thường chia 12 tháng trong năm thành “mùa Việt” và “mùa Tây” để linh động tăng giảm số lượng cao lầu ra thị trường. “Mùa Việt” - kéo dài từ sau Tết Nguyên đán đến hết hè - thường xông xênh vì khách chuộng cao lầu, các tiệm đặt hàng liên tục mới kịp phục vụ.

Thời điểm ngày làm 200 ký cao lầu, anh Hồng tìm thêm hai, ba người phụ. Còn ngày thường, anh gói ghém làm vài chục ký, vừa đủ cho bạn hàng, mối ruột, chẳng ôm đồm nhiều. Để sáng sớm hôm sau có gạo làm cao lầu, mọi việc phải được chuẩn bị từ chiều hôm trước. Gạo quê vo sạch, ngâm nước giếng làng qua đêm cho mềm rồi mới lắng lấy phần tinh, xử lý thêm vài bước trước khi đưa vào quấy trên bếp lửa cả giờ đồng hồ, trộn thêm nước tro. Khâu nào, anh Hồng cũng cẩn thận từng chút. Những công đoạn như nhào bột, cán mỏng, hấp cao lầu đòi hỏi sự tỉ mỉ, nhanh nhẹn nên anh tiếp tục đứng chính. Đến lúc ra sợi thì có người cô trong họ chung tay.

52.jpg
Sợi cao lầu vừa hấp xong, vàng thơm, óng ánh.

Giữ điều đẹp đẽ

Muốn từng mẻ cao lầu vàng thơm, lâu hỏng, cần bảo đảm sự kỹ lưỡng từ khâu chọn nguyên liệu đến sơ chế, thực hiện. Anh Hồng nói, nếu lấy gạo dẻo làm cao lầu thì coi như bỏ. Phải là gạo xiệc, trồng trong vùng, thứ gạo nở quen thuộc với bà con lao động. Gạo xiệc mới tạo nên độ cứng giòn vừa phải cho sợi cao lầu, giúp người ăn cắn một miếng sẽ nhớ. Việc ngâm, lắng bột gạo cũng chẳng thể qua loa vì phần tinh túy sau khi xay, nếu không khéo lọc sẽ thất thoát ít nhiều. Bếp hấp cao lầu lúc nào cũng phải tiếp đủ củi để giữ nhiệt ổn định, thời gian canh cần chính xác theo từng lượng vỉ đặt vào.

Nhiều người rủ rê sắm máy làm cho tiện, đỡ thức khuya dậy sớm, thế nhưng cả ông Trái và anh Hồng đều lắc đầu. Cha con ông Trái muốn giữ nghề làm cao lầu thủ công này, như một nét đặc trưng của quê hương, xứ sở. Anh Hồng hay nói, sức đến đâu làm đến đấy, miễn sao giữ được vị cao lầu quen thuộc như cách ông bà, cha mẹ vẫn làm. Anh xem nghề truyền thống là thương hiệu, uy tín gia đình gìn giữ bao đời, đâu thể muốn là đổi. Sợi cao lầu làm thủ công có màu, vị và độ sừng sực rất riêng, người sành sẽ cảm nhận rõ. Vậy nên, trót chọn việc kỳ công thì phải làm đến nơi đến chốn.

Trong gian bếp cũ nhưng ấm áp quanh năm, sau khi hoàn thành các đơn hàng, cha con ông Trái hay ngồi tâm sự cùng nhau. Những ngày anh Hồng tập tễnh vào nghề, các cuộc trò chuyện thường xoay quanh việc góp ý từng mẻ cao lầu thành phẩm, rằng làm tốt chỗ nào, chưa đạt ở đâu, cần khắc phục thế nào. Ông Trái không chỉ truyền cho con trai tất cả kỹ thuật mà mình tích góp được trong hơn nửa thế kỷ bám nghề mà còn gửi trọn niềm tin yêu cho thế hệ kế thừa. Ông biết, khi quyết định rời ruộng đồng vào đứng bếp làm cao lầu, anh Hồng đã tính chuyện đường dài. Anh Hồng học nghề nhanh, lại chịu khó, ông Trái yên tâm hẳn. Từ ngày con trai nhận đảm trách các phần việc trong lò, ông Trái chỉ còn lo khâu cuối cùng, đưa từng gói cao lầu đến tay khách hàng.

“Tôi học nghề của cha mẹ từ nhỏ, 11 tuổi là gắn bó với từng vỉ cao lầu đến khi gần 70. Hồi còn trẻ cứ nghĩ làm thử vài năm cho biết, nhưng ai ngờ cả đời theo nghiệp gia đình. Nghề này ngộ lắm, bạn hàng đã chọn là cứ giữ mãi, mình có mệt cũng ráng làm cho đàng hoàng, tươm tất. Nhìn người ta háo hức ăn tô cao lầu, khen ngon, biết trong đó có sợi cao lầu nhà mình làm, tự dưng thấy vui”, ông Tạ Ngọc Trái cho hay.

Vào mùa cao điểm du lịch, nhiều đoàn khách đến nhà ông Trái tham quan, tìm hiểu quy trình làm sợi cao lầu thủ công. Dù rất bận với các phần việc cố định trong ngày nhưng anh Hồng vẫn hiếm khi từ chối. Anh muốn nhiều người biết được sự chăm chút của người làm cao lầu để khi thưởng thức sẽ thấy ý nghĩa, giá trị hơn. Vừa khẩn trương vào việc, anh vừa tranh thủ trò chuyện, kể cho khách nghe về truyền thống làm nghề 200 năm của gia đình mình. Làm công đoạn nào, anh giới thiệu rõ để khách dễ hình dung. Có người muốn làm thử, anh Hồng chẳng chần chừ, đưa luôn khúc bột còn ấm, hướng dẫn cách nhào sao cho dẻo, chia sao cho khéo.

Nhiều khách làm sai, anh nhẫn nại sửa, hỗ trợ từng bước. Anh hay rủ khách ở chơi, đợi đến khi mẻ cao lầu đầu tiên ra lò vì muốn tặng mọi người chút quà quê. Sợi cao lầu nóng hổi chấm kèm chút xì dầu đặc quánh, món đơn giản đủ khiến nhiều người hít hà. Bởi vị ngon mộc mạc ấy, dễ đâu tìm giữa cuộc sống hiện đại ngày nay. “Khi mở xửng hấp, hít hà hương thơm đặc trưng của sợi cao lầu vừa chín tới, mắt ai cũng tròn xoe. Họ không nghĩ rằng làm cao lầu cực và lắm công đoạn đến vậy. Cực chứ, nhưng là hương vị quê hương thì điều gì cũng xứng đáng đầu tư. Tôi hay nói với bất kỳ ai ghé thăm nhà, cứ muốn học nghề thì ghé, gia đình dạy miễn phí. Giờ có ai theo nghề này, mừng chứ sao”, giọng anh Hồng khấp khởi.

Có thể bạn quan tâm

Những mùa nho Hạ Đen

Một đêm khó quên vào tháng 9/2024. Gió rít liên hồi, cuốn theo mưa như trút nước sau khi bão càn quét qua địa phận xã Nam Dương (tỉnh Bắc Ninh). Lũ ập đến, nhấn chìm vườn nho Hạ Đen rộng hàng nghìn mét vuông của vợ chồng chị Giáp Thị Tuyền.

Mỗi phiên chợ giao dịch hàng nghìn con trâu, bò với giá trị trên dưới 50 tỷ đồng.

Chợ trâu, bò giữa lưng trời

Khi sương mù còn đặc quánh, phủ trắng trên những mái nhà sàn, thì ở một thung lũng nhỏ nơi lưng chừng núi Nghiên Loan, nhịp sống đã hối hả. Đó là phiên chợ "đặc biệt" của cả khu vực miền núi phía bắc - Chợ trâu, bò Nghiên Loan (xã Nghiên Loan, Thái Nguyên).

Đoàn Thái Cúc Hương.

Thế giới cổ tích từ giấy dó

Một tâm hồn nghệ sĩ, một bàn tay khéo léo như nghệ nhân, những câu chuyện bất tận về văn hóa truyền thống và luôn khiêm tốn nhận mình là một thợ thủ công.

Nghệ nhân Nguyễn Phương Uyên tạo dáng cho bonsai mini.

Hơn cả một thú chơi

Nằm trên đường Tô Hiến Thành, phường Nghĩa Lộ, tỉnh Quảng Ngãi, ngôi nhà của ông Nguyễn Phương Uyên (54 tuổi) nổi bật hơn hẳn nhờ hàng chục chậu cây bonsai.

Thầy Nam cần mẫn với mô hình du lịch sinh thái. Ảnh: BẢO LONG

Từ bục giảng đến miền quả ngọt

Ở phường Chũ (tỉnh Bắc Ninh), có một người thầy giáo không chỉ truyền cảm hứng trên bục giảng, mà còn mang nhiệt huyết và sự sáng tạo của nghệ thuật để góp phần tạo nên một không gian du lịch xanh. Đó là thầy Đinh Phương Nam, thầy giáo dạy mỹ thuật theo đuổi mô hình du lịch nông nghiệp-sinh thái ở đồng bằng Bắc Bộ.

Tên lửa vác vai A72. Ảnh: Bảo tàng Phòng không - Không quân

Bí mật của 60 giây quyết định

“Có mấy năm thôi mà", Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Nguyễn Văn Thoa nói thế khi chúng tôi hỏi về những ngày quân ngũ, vác trên vai chiếc tên lửa A72 và hạ gục bao nhiêu máy bay Mỹ - ngụy.

"Bố" Kiên và bé Di tại lớp học ở Cát Cát.

Mái ấm ở thung lũng Cát Cát

Tôi đến Cát Cát (phường Sa Pa, tỉnh Lào Cai), bản làng người H'Mông được du khách ví như viên ngọc đẹp nhất Tây Bắc. Tiết trời trong nhưng sương mù vẫn đùn lên từ phía dưới thung lũng Ý Lình Hồ như những đụn bông trắng tinh.

Tại một địa điểm giao lưu của nhiều người yêu đĩa than tại Hà Nội.

Sống chậm với đĩa than trong thời đại số

Trong thời đại mà một thiết bị đeo tay có thể chứa đến 60 triệu bài hát, việc lựa chọn nghe nhạc từ một chiếc đĩa than tưởng như là lỗi thời. Nhưng thực tế, đó lại là biểu hiện của một xu thế tìm lại sự nguyên bản, chậm rãi và thật lòng trong trải nghiệm thưởng thức.

La Quốc Bảo đánh giá hiện trạng chiếc áo cưới hoàng gia triều Nguyễn vừa được sưu tầm từ Hà Lan.

Sợi tơ mong manh kết nối trăm năm

Khi nói đến sưu tầm đồ cổ ở Việt Nam, người ta thường nghe tới đồ gốm, sành sứ, hay đồ gỗ… chứ ít ai biết đến những món đồ vải mà qua đó thể hiện tay nghề thêu huy hoàng, vang danh thế giới của người Việt hàng trăm năm trước.

Nguyễn Ngọc Minh Trang kể chuyện di sản bằng logo.

Trang Faifo và hành trình kể chuyện di sản

Trang Faifo chính là Nguyễn Ngọc Minh Trang, 23 tuổi, một nhà thiết kế đồ họa trẻ với tư duy dám nghĩ, dám thể hiện cá tính cá nhân. Niềm đam mê văn hóa quê hương đã tạo bệ phóng cho cô tỏa sáng, mang bản sắc nghệ thuật Việt.

Dưới làn nước xanh này là hơn 20 căn nhà sàn của người dân Kim Vân. Ảnh: TÙNG VÂN

Ám ảnh ở “rốn ngập” Kim Vân

Kim Vân là thôn vùng lõi Khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ, thuộc xã Văn Lang, tỉnh Thái Nguyên, nằm trong một "lòng chảo" lớn bao bọc bởi núi đá. Đất canh tác hạn chế, cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây muôn vàn khó khăn với hơn một nửa trong tổng số 112 hộ dân nghèo và cận nghèo.

Bác sĩ Nguyễn Văn Quốc Trí đang khám cho bệnh nhân.

Như mây trắng A Xan

Con đường ngoằn ngoèo vượt qua bao triền núi, vắt mình giữa những quầng mây trắng đưa chúng tôi đến xã Hùng Sơn (trước đây là các xã A Xan, Tr’Hy, Ga Ry, Ch’Ơm của tỉnh Quảng Nam) - vùng đất tận cùng phía tây thành phố Đà Nẵng giáp biên giới nước bạn Lào.

Bà Vàng Thị Sỏng trong căn bếp của người La Chí.

Triết lý của những người phụ nữ

Mỗi bận chồng đánh, Lý Tả Mẩy hay ra chợ Sa Pa ngồi khóc. Đánh lại chồng thì không đủ sức, bỏ thì không được vì lấy rồi thì ai lại bỏ, Mẩy nghĩ mình phải tự lập, nhưng Mẩy chưa biết làm gì. Nên Mẩy vừa mang đồ ra chợ bán, vừa ngồi khóc, vừa nghĩ.

Bà Nguyệt đi phát gạo cho người dân vùng ngập nước.

Ở nơi có những đùm bọc, sẻ chia

Một tâm trạng rất khó tả khi chúng tôi cùng với Đoàn thiện nguyện CLB Nhà báo nữ Việt Nam đi lên Thái Nguyên để đến Trung tâm Bảo trợ xã hội (TT BTXH) Hường Hà Nguyệt, nằm trên đất xã Đồng Hỷ. Gần như là bàng hoàng, thậm chí rớt nước mắt vì vẻ tiêu điều không tránh khỏi.

Học sinh Trường THPT Chuyên Bắc Kạn giúp dọn dẹp, vệ sinh môi trường tại Trường THPT Chuyên Thái Nguyên.

Tình người vượt qua lũ dữ

Đêm 7/10, mưa như trút nước, nước sông Cầu dâng cao, tràn qua đê đổ xô vào các phường trung tâm của Thái Nguyên. Chưa đầy hai tiếng đồng hồ, cả khu vực trung tâm chìm trong biển nước. Giữa đêm tối, nhiều hộ dân nhanh chóng bị cô lập, nhiều người phải trèo lên tầng ba, nóc nhà gọi cứu hộ.

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Tình yêu hát văn từ lớp học thiếu ánh sáng

Dù nói là chỉ hoạt động mỗi thứ tư hằng tuần, nhưng không ngày nào lớp học chầu văn của nghệ sĩ Tuyết Tuyết (trong ảnh) ngưng tiếng hát. Điệu xá, điệu dọc, cờn, phú cứ tang tính tình vang lên. Các em học sinh đến đây học miễn phí còn được mẹ Tuyết bồi dưỡng tiền đi lại, quà vặt.

TS Lê Bá Khánh Trình chụp hình cùng đội tuyển Trường Phổ thông Năng khiếu năm 2024. Ảnh: NVCC

Toán học và cuộc đời

TS Lê Bá Khánh Trình hay nói vui, rằng ông có duyên với Toán học nên ngay cả lúc về hưu, tưởng rảnh lại thành bận. Ở tuổi 63, người nhà vẫn thấy ông ngày ngày đăm chiêu nghĩ đề Toán mới, thêm cách giảng hay để truyền cảm hứng, kinh nghiệm cho học trò trên chặng đường chinh phục các giải đấu lớn.

Một trong những vườn hồng trên đỉnh Khưa Dầy. Ảnh: TÙNG VÂN

“Làm tươi” hồng cổ trên đỉnh Nà Chom

Đến Nà Chom vào dịp thu sang, trên đỉnh Khưa Phát, Khưa Dầy, giữa tiếng chim hót, gió reo rì rào là bóng những cây hồng cổ thụ. Với tuổi đời từ vài chục đến hàng trăm năm, chúng không chỉ là chứng nhân của thời gian mà còn là báu vật vô giá, kết tinh hương vị ngọt ngào của mảnh đất và con người nơi đây.

Chị Lê Thị Hà tạo phôi trên thân gỗ trắc đen.

Tài hoa đặc biệt của cô gái Gò Nổi

Ngày trước, xã Gò Nổi (thành phố Đà Nẵng) từng là vùng ươm tơ dệt lụa nổi tiếng. Con gái Gò Nổi siêng năng, chăm chỉ với câu ca dao: “Tiếng đồn con gái Bảo An (Gò Nổi). Sáng thời dệt cửi, chiều đan mành mành”.

Học viên trao đổi bài học.

Những lớp học đặc biệt giữa đại ngàn

Khi ánh nắng cuối ngày buông dần sau núi, những “học viên đặc biệt” ở tuổi xế chiều tại các thôn, bản vùng cao lại rời nương rẫy về nhà để chuẩn bị đến lớp học cái chữ. Những học trò ấy đã bước qua nửa đời người, mái tóc đã bạc, đôi tay chai sạn, nay cầm bút với khao khát viết tiếp giấc mơ con chữ còn dang dở.

Ông Hùng hướng dẫn học trò làm mã cổ.

Bạc vàng hàng mã (kỳ 1)

Hàng mã vốn không xa lạ trong đời sống thường ngày của người dân Việt Nam. Hàng mã mang tính chất “thế” cho đồ vật, con vật, thậm chí cả người, nhằm “hiến” về cõi xa xăm, qua đó thỏa mãn nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng một cách bức thiết mà bớt đi sự tốn kém.

Hải sản tươi ngon tại chợ Gú. Ảnh: LƯƠNG HÀ

Người về chợ Gú

Chợ Gú nằm ngay bên đường Hổ Đội, xã Thái Thụy, tỉnh Hưng Yên, sát bờ tả của sông Diêm Điền. Từ xưa, chợ Gú vốn là cảng cá của tàu thuyền mỗi chiều về neo đậu. Chợ họp cả ngày. Buổi sáng, hàng hóa là các thứ thu hoạch được trong đồng, ngoài bãi.

Già Hoàng Văn Cầu chế tác mặt nạ Ka Đong.

Huyền bí mặt nạ Ka Đong

Giữa bản làng dân tộc Sán Chỉ, dưới mái nhà sàn luôn lưu giữ những chiếc mặt nạ mang ý nghĩa tâm linh với tên Ka Đong. Những chiếc mặt nạ gỗ, nhiều mầu sắc, thậm chí khá dữ tợn lại ẩn sâu giá trị tốt đẹp về bản sắc văn hóa và ước mơ, mong mỏi về cuộc sống yên bình, no ấm.